Một lần bừng tỉnh

Thử tìm hiểu lại một sự kiện lịch sử: Đông kinh nghĩa thục

Tháng 5-1907, nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương ký giấy phép chính thức cho khai sinh một trường tư thục ở Hà Nội đã bắt đầu mở cửa từ một vài tháng trước. Nhưng chỉ ít lâu sau, tháng 12 cùng năm, họ phải lập tức thu hồi giấy phép đó lại. Vậy mà đã muộn... Tuy chỉ tồn tại trong vòng chưa đầy một năm, phong trào Đông Kinh nghĩa thục vẫn vĩnh viễn đi vào lịch sử.
Có dịp đi lại trên phố Hàng Đào buôn bán tấp nập - dãy phố đầu bảng trong danh sách 36 phố phường cũ của Hà Nội - có lẽ ít ai nhớ rằng nơi đây đã có lúc trở thành trung tâm của một cuộc vận động lớn nhằm canh tân đất nước.
Mở trường giảng dạy. Ra báo. Diễn thuyết. Thảo luận. Bình văn... Trong khuôn khổ một trường tư thục mô phỏng theo Khánh ứng nghĩa thục bên Nhật, những việc cụ thể mà các nhà nho lúc ấy, dưới sự hướng dẫn của các cụ Lương Văn Can, Nguyễn Quyền, Lê Đại, Hoàng Tăng Bí... đã làm, kể cũng đã nhiều. Song, so với cái ồ ạt của hoạt động, thì nhận thức mới mà phong trào này mang lại còn quan trọng hơn gấp nhiều lần.
Tự phê phán và chân thành muốn hoà nhập
Nói một cách thật cô gọn, thì lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX, không gì khác, là lịch sử mất nước, đồng thời là lịch sử suy nghĩ để hiểu rõ nguyên nhân chính tại sao lại dẫn đến mất nước, từ đó tìm ra đối sách đúng đắn. Thoạt đầu, các nhà nho - bộ phận nhạy cảm nhất của dân tộc - chỉ mới dừng lại ở mệnh trời, ở ý chí, ở cách tổ chức lực lượng. Và họ đã nêu những tâm gương kiên trung trong cuộc đối đầu không chịu khuất phục trước quân xâm lược. Nhưng rồi bấy nhiêu cố gắng đều chỉ dẫn đến bế tắc, tuyệt vọng. Bước sang đầu thế kỷ này, trong khi ngày một thấm thía nỗi hờn vong quốc, những đầu óc tiên tiến nhất thời ấy bắt đầu nghĩ về thực trạng đất nước trên một bình diện khác: bình diện văn hoá. Nói như một nhà trí thức có hạng là Phạm Quỳnh sau này sẽ nói: “Cái nông nỗi mất nước của ta chính là một tấn kịch nhỏ trong tấn kịch Đông Tây xung đột nhau. Phương Tây đem lại cái chủ nghĩa đế quốc, cái dục vọng bá quyền, những tư tưởng phá hoại, những cơ khí tối tân mà tràn ngập sang phương Đông trong khoảng một thế kỷ nay làm cho các dân tộc phương Đông thất điên bát đảo, bảy nổi ba chìm, đến nay hãy còn tê mê chưa tỉnh sự đời. Thành ra, cái nông nỗi ấy, đối với ta, không phải chỉ là một vấn đề chính trị mà thôi, lại kèm thêm một vấn đề văn hoá nữa, khó khăn nguy hiểm vô cùng”.
Trong những nhận xét khái quát đó, cũng như trong một bài nghị luận dài mang tên Văn minh tân học sách, văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng, do đó nó yêu cầu có một cách đối xử khác. Có một thời nó bị gắn chặt với các thế lực xâm lược, và tinh thần yêu nước nhất thiết chỉ có một cách để bộc lộ là bài ngoại (ở đây là những người từ phương Tây tới), chống lại mọi biểu hiện dây dưa với ngoại bang, thực chất là chống lại văn hoá. Giờ đây, nhờ sự nghiền ngẫm hợp lý, văn hoá phần nào có được sự độc lập tương đối của một thứ công cụ; nếu kẻ xâm lược đã dùng văn hoá để thắng ta, thì ta cũng có thể dùng nó để chống lại chúng. Chủ nghĩa yêu nước hoàn toàn có thể tìm thấy ở đấy một trợ thủ hiệu nghiệm.
Từ một cách nhìn như thế về lịch sử - xem lịch sử xã hội đồng thời là lịch sử văn hoá - người ta bắt tay làm một cuộc kiểm điểm khá mạnh dạn. Trong những tài liệu mà Đông Kinh nghĩa thục in và phát cho các học viên, trong các bài báo lớn nhỏ được đăng trên một tờ báo mới được khai trương cùng với phong trào, tinh thần tự phê phán được đẩy lên ở quy mô dân tộc và xem như bước khởi đầu cần thiết cho mọi vận động có liên quan đến sự sống còn của đất nước. Một thời gian dài, yêu nước chỉ có cái nghĩa duy nhất là lập căn cứ khởi nghĩa và khi khởi nghĩa thất bại thì khẳng khái lui về ở ẩn, nhất định không chịu hợp tác với giặc. Giờ đây, cách hiểu có khác, yêu nước nồng nàn là phải hiểu cho ra cái lạc hậu cổ hủ của nước mình, sự chậm chân, nhất là sự tách rời của nước mình so với thế giới, để rồi lo bảo nhau tìm cách xoá bỏ mọi khoảng cách đáng ngán đang có. Vượt lên trên mặc cảm tự tôn giả tạo, đúng hơn là một thứ tự vuốt ve ru ngủ có hại, người ta có thể nói với nhau khá nặng lời mà không sợ ai hoang mang và mất niềm tin cả. Cứ mỗi lần kể đến sự canh cải đổi thay ở nước ngoài là một lần Văn minh tân học sách nhắc lại: Còn ta thì vẫn như cũ! Trong số Đăng cổ tùng báo ra ngày 27-6-1907, Nguyễn Văn Vĩnh còn viết rõ hơn: “Nước Nam ta bây giờ dốt tệ lắm, mà cũng vì cái dốt nên phải làm như trâu như bò, được đồng nào đem sắm đồ Tàu hết. Cũng vì cái dốt nên nghề hay không làm, ai cũng muốn làm cái nghề ăn không. Cũng vì cái dốt nên người đói meo ra không lo, lo Quan Âm đói. Nói tóm lại thì bao nhiêu cái khổ sở nhọc nhằn ở nước ta cũng vì cái dốt mà ra cả”.
Cái chuẩn được dùng để xem xét thực trạng xã hội, trong trường hợp này, không phải là thứ chuẩn riêng do ta nghĩ ra, mà là cái chuẩn chung của cả thế giới. Thói mị dân xoàng xĩnh bị coi như là có hại. Những đặc điểm dân tộc không bị cường điệu quá mức. Đằng sau những kế sách mà Văn minh tân học sách đề ra nhằm mở mang dân trí có cả một nhận thức sâu sắc dùng làm cơ sở: Đó là nhận thức cho rằng con đường duy nhất để cứu nước là canh tân đất nước. Và trong công cuộc cường dân hoá quốc gian khổ đó; chỉ có thể chân thành cởi mở chứ không thể ấp úng che giấu, chỉ có thể thật sự cầu thị, xắn tay lên mà học mà làm, chứ không có lối nào đi tắt. Trong thời đại mà các cụ gọi là “mưa Âu gió Mỹ” này, mọi thói láu cá khôn vặt không có đất sống.
Trí thức không còn có nghĩa là bảo thủ
Đặt trong quá trình vận động đi lên của dân tộc trong suốt thế kỷ XX, công việc mà Đông Kinh nghĩa thục làm được nhất là những nhận thức mà phong trào đó gợi ra, mang tính cách một thứ đột phá khẩu. Sau sự mở đường ấy, những đầu óc tiên tiến trong giới trí thức, dưới nhiều hình thức khác nhau, sẽ còn đi tiếp, và đi xa hơn, trong việc tự phê phán cũng như đẩy mạnh hoà nhập với thế giới. Từ mấy câu thơ Tản Đà sẽ viết (Dân hai nhăm triệu ai người lớn - Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con), tới một cuộc vận động mang sắc thái bùng nổ, và đáng được coi là sự kiện thế kỷ như phong trào Thơ mới, người ta đều có thể “đọc ra” những dư vang tư tưởng được khởi xướng từ Đông Kinh nghĩa thục. Tâm thức dân tộc như ở vào một cuộc bừng tỉnh và sự bừng tỉnh ấy, rõ ràng là bước chuẩn bị cho những vận hội mới.
Một điều kỳ lạ người ta cũng không nên quên khi nhìn lại phong trào Đông Kinh nghĩa thục, ấy là vai trò mà các nhà nho, những trí thức dân tộc lúc bấy giờ đã đảm nhận. Vốn là tầng lớp ăn sâu bén rễ tới mỗi làng xóm và có tiếng nói khá quyết định ở triều đình, trước đây họ nổi tiếng là bảo thủ. Họ từng thấy rất ngại ngùng không muốn mở cửa đất nước trước văn hoá phương Tây, chỉ bởi một lẽ giản dị: mở cửa nghĩa là quyền lợi của họ bị mất, họ không có dịp thi cử như cũ để rồi vênh vang mũ cao áo dài, tận hưởng ân vua lộc nước như cũ. Với Đông Kinh nghĩa thục, họ đã trở lại với vai trò mà bấy lâu xã hội trông đợi, vai trò khai phá mở đường, gợi ý để dân tộc cùng đi tới. Trí thức đồng nghĩa với cách mạng, văn thơ do họ sáng tác xứng đáng để được gọi là văn thơ cách mạng. Và như vậy thì cái năm 1907 ấy thật sự là một phen để họ rửa mặt, gỡ đi cái tiếng tầm thường vốn có.
1992

Lần đầu in trong
Vương Trí Nhàn, Những kiếp hoa dại,
NXB Hội nhà văn, 1993

Thơ Trần Dần:

Thơ Trần Dần:
Đi qua sự im lặng và quên lãng
Thứ hai 17, Tháng Ba 2008

Sách do Nhã Nam & NXB Đà Nẵng ấn hành. Bìa sách là hình minh họa của chính Trần Dần cho bài thơ Bài hát cho người lớn: Đi chởi!/Đi chơi!/Đầu trọc bình vôi/Hai tay hai hòn sỏi/Đi chơi!/Đi chởi!/Hai tay hai hòn sỏi/Đầu trọc bình vôi... Đi chởi!/Đi chơi!
TT - Là người đã đề xuất việc làm một tuyển tập đầy đủ về thơ Trần Dần từ khi còn là biên tập viên NXB Hội Nhà Văn, đến nay, khi đã về hưu mới được nhìn thấy cuốn Thơ Trần Dần đẹp đẽ và đầy đặn, lại in ở một NXB khác tận miền Trung, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn vẫn không giấu được nỗi vui mừng. Ông chia sẻ với Tuổi Trẻ về tình cảm của mình với tập thơ mà theo ông sẽ là sự kiện của văn học 2008:

Với tôi, và theo tôi, với rất nhiều người quan tâm đến văn học, Trần Dần là tác giả cần phải đọc. Không nên mặc định là đọc vì nó có vấn đề, hay vì nó khó đọc mà ta cố đọc. Đọc, vì Trần Dần là một tác giả lớn của văn học Việt Nam, và vì trước đây chúng ta chưa có điều kiện tiếp xúc với văn bản chuẩn, nay đã có nó, chúng ta phải đọc. Đọc không phải để kêu lên vì tìm thấy cái gì đó hợp với mình, mà còn để kiểm chứng về những điều từng nghe, từng biết một cách không đầy đủ.

* Thưa ông, có khá nhiều tác giả - tác phẩm khi còn ở dạng bản thảo được thì thầm chuyền tay hay rỉ tai thì có vẻ hấp dẫn, nhưng đến khi được in ấn phát hành rộng rãi lại thấy cũng chỉ… vậy vậy thôi, và càng để thời gian thẩm định thì giá trị tác phẩm càng phai nhạt.
Theo ông, làm sao thơ Trần Dần vượt lên được những lẽ đó, để đến khi xuất hiện thậm chí 50 năm sau khi được viết ra, vẫn gây sự kinh ngạc và cảm phục về bút lực của một nhà thơ?

Trần Dần là nhà thơ có nhiều cái hơn những nhà thơ đương thời, có người nổi vì những quan niệm được tuyên bố, có người nổi vì những câu thơ gây sốc nhưng thật ra không phải thơ, lại có những người nổi vì những tai nạn nghề nghiệp. Trần Dần không thế, ông là nhà thơ mang trong mình cả hai thái cực: con người muốn làm một nghệ sĩ kiểu mới, đi trước thời đại, đồng thời cũng là một nghệ sĩ dám đằm mình xuống để viết.
Ông viết trước hết để cho mình, để thỏa cái khát khao sáng tạo trong mình, cứ viết đã, chứ không như rất nhiều nhà văn khác chưa viết đã sợ không được hiểu, không được in. Chính vì thế mà quá trình cách tân của ông bắt đầu rất sớm, từ những năm 1940 của thế kỷ trước, và đi rất xa.
Đọc một cách có hệ thống thơ của ông, trong tuyển tập này, mới thấy hình như ông đã đi qua tất cả các thời kỳ của thi ca hiện đại thế giới, từ thơ siêu thực đến thơ hội họa. Hơn bất cứ nhà thơ VN nào, ông có một khả năng phi thường mà trời phú cho những nghệ sĩ lớn: đó là khả năng chịu đựng sự cô đơn, cô độc, chịu đựng sự im lặng và quên lãng. Về điểm này, tôi thấy ông gần với các danh họa Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên...; bất chấp các biến động nghiệt ngã của thời cuộc, họ cứ sáng tác cái đã, họ biết lao động sáng tạo của mình sẽ được đón nhận dù 20-30 năm nữa. Họ biết đầu tư cho tương lai.

* Thưa ông, nhưng như vậy thì Trần Dần rất có thể sẽ khó đọc với công chúng trẻ hôm nay, nó quá nhiều u uất và quá nhiều suy tư mà chỉ có người trong cuộc và người cùng thời mới hiểu?
Tôi không nghĩ thế, có thể ngay lúc mới ra thơ Trần Dần chưa được đánh giá hết, nhưng chỉ nói riêng hình thức thôi thì thơ Trần Dần đã hết sức hấp dẫn rồi. Tôi là người cũ, chỉ thích những tìm tòi chữ nghĩa của ông từ Cổng tỉnh trở về trước, nhưng tôi thấy những cách tân của ông về bố cục, sắp đặt, màu và co chữ, phông chữ cũng đủ là sự thách đố thú vị với bạn đọc trẻ.

Còn về tư tưởng thơ Trần Dần, tôi vẫn nói với con cái trong nhà, với những bạn trẻ mà tôi quen biết, và với mình: Hãy học cách bứt ra khỏi dòng chảy cuồn cuộn của cuộc sống, để im lặng, và tư duy. Và muốn được như vậy, hãy đọc thơ Trần Dần, để tập đơn độc với bản thân mình, dù chỉ 15 phút mỗi ngày.
Trần Dần im lặng trong cô đơn để viết cho tương lai. Có lẽ vì thế mà có những câu thơ của ông 50 năm sau đọc vẫn mới: "Nếu quả thực anh không lường đảo - hãy trữ đủ đau thương - cho mãn hạn làm người", hay: "Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tím - cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô” (trích tập Cổng tỉnh).

THU HÀ thực hiện (TT)

Một giai đoạn tiếp nhận văn học nước ngoài

Thời trung đại , các cụ ta hồi xưa sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán và việc đọc sách chữ Hán cũng tự nhiên như cơm ăn nước uống hàng ngày , nên trừ một vài trường hợp hiếm hoi , loại như Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị , còn nói chung trong văn học Việt Nam lúc đó không tồn tại khái niệm tác phẩm dịch .
Bước sang đầu thế kỷ XX , mặc dù hướng vào việc xây dựng một nền văn học theo mẫu hình phương Tây, các nhà tiên phong cũng chỉ bắt tay dịch một thời gian để giúp vào việc dạy,học,và ổn định chữ quốc ngữ;tiếp đó sáng tác càng phát triển thì dịch thuật càng thưa thớt,thường chỉ được làm một cách ngẫu nhiên,rồi xuất hiện lót đót đây đó.Trong hoàn cảnh Đông Dương là một xứ được nước Pháp bảo hộ,học sinh học bằng tiếng Pháp ngay từ bậc tiểu học,công việc dịch văn chương gần như là không được đặt ra bởi không thành một nhu cầu cấp thiết.Thỉnh thoảng người ta cũng thử dịch chơi một chút , chẳng hạn , vào khoảng 1940-42,trên báo Ngày nay,Thế Lữ ,Thạch Lam,Khái Hưng chia nhau dịch một ít truyện ngắn của những Daudet,Maugham , Pirandello … sau làm thành hai tập Hương xa Hoa lạ hoặc Lan Khai dịch Bức thư của người không quen của Zweig vv…
Dịch thuật chỉ được khởi động mạnh mẽ từ sau 1945 mà lực lượng tham gia đầu tiên chính là chính những người viết.Ngay từ hồi ở Việt Bắc, Hội Văn Nghệ Việt Nam đã có tiểu ban dịch thuật.Trên tạp chí Văn nghệ, Tố Hữu dịch Hành khúc của Aragon , Đợi anh về của Simonov, Phan Khôi dịch Chúc phước của Lỗ Tấn . Được in ra thành sách , còn có Vũ Ngọc Phan với Misa cua Polevoi , Ngô Tất Tố với Suối thép của Serafimovich , Trời hửng của Vương Lực , Phan Khôi với Thù làng của Mã Phong , Hoàng Trung Thông với Sáu bài thơ Maiakovski ( tất cả đều đã được ghi vào anh mục sách của Nhà xuất bản chuyên in thơ truyện hồi kháng chiến chống Pháp , là nhà Văn nghệ ) .
Đặt trong cái mạch nói trên , thì tập Truyện ngắn tuyển tập (Tchekhov lúc đó còn viết là Sê—khốp ) là một sự nối tiếp tự nhiên . Nhìn vào danh sách người dịch , chúng ta bắt gặp ở đây, những tên tuổi như Nguyễn Thành Long ,Trần Dần , Thuỵ An, Phạm Hổ , Nguyễn Văn Sĩ . Nhất là chúng ta bắt gặp một trong những tên tuổi hàng đầu của văn học Việt Nam thế kỷ XX là Nguyễn Tuân .
Ai cũng biết sinh thời , Nguyễn Tuân là một người đọc nhiều và đặc biệt thích những tác giả lớn . Trong các bài viết đây đó , người ta thấy ông nhắc tới từ Andersen , Gogol , L.Tolstoi , Dostoievski tới Reoger Martin du Gard , B . Brecht , từ Charle Chaplin , Eisenstein tới Rener Clair , Pablo Picasso . Cả những tác phẩm cổ điển lâu đời lẫn những của hiếm của độc riêng có trong thế kỷ XX, không gì tốt đẹp của nhân loại xa lạ với ông Nguyễn .
Tuy nhiên trên giấy trắng mực đen , tức là xét tổng số chữ nghĩa Nguyễn Tuân đã dành cho một nhà văn nước ngoài và cái phần cốt cách người đó hằn lên trong tâm trí ông , để lại ảnh hưởng , tồn tại như một sự kiện của cuộc đời ông , thì phải kể Tchekhov . Vào thời điểm cuốn Truyện ngắn này ra đời , trong giới xuất bản ở Việt Nam chưa có ý niệm về người biên soạn . Và tôi cũng chưa từng được nghe ai kể là cuốn sách đã hình thành như thế nào . Nhưng tôi ngờ chính Nguyễn Tuân là người đầu têu cho công việc , tức là người “gà “ cho nhà xuất bản làm tập truyện này và đứng ra bao thầu cho sự hình thành cuốn sách về mặt nội dung . Bảo ông A. dịch truyện này , ông B dịch truyện nọ . Tự tay dịch một số. Rồi ghép lại thành tập . Rồi lo chạy Sĩ Ngọc vẽ cho cái ca-ri-ca-tuya hình tác giả làm phụ bản . Và không cần nhiều tưởng tượng lắm cũng đoán được là khi tập sách in xong , ông cũng hoan hỉ nhìn nhận nó như một đứa con tinh thần của mình . Trước mắt tôi là bản in lần thứ nhất cuốn sách mà Nguyễn Tuân đã ký tặng Nguyễn Khải vào ngày 31-X-1957 ( về sau ông Khải đã cho tôi và tôi giữ đến ngày hôm nay mang ra tái bản ) . Nguyễn Tuân vốn xem nghề văn là cái nghiệp thiêng liêng và không bao giờ cẩu thả trong giao thiệp . Việc nhà văn năm đó tuy mới 47 tuổi nhưng đã rất già dặn trong nghề mang tặng một người bạn trẻ ( năm ấy Nguyễn Khải mới 27 ) một cuốn sách mình chỉ dịch một phần -- , bản thân nó , cũng đã nói lên một phần những tâm huyết mà Nguyễn Tuân đặt vào trang sách .


Tuy không ai tuyên bố chính thức , nhưng xem cái cách đối xử với người dịch và sách dịch ở ta hiện nay thì có thể tóm tắt đại khái với nhiều người , dịch sách là một công việc không mấy nặng ký . Muốn có ý nghĩa sáng tạo, phải là đi làm thơ viết văn . Chứ dịch ấy ư ? Chẳng qua bất tài không sáng tác được mà lại có may mắn được học một ít ngoại ngữ nên anh mới đi làm thứ công việc hạng hai đó . Dịch không phải là chỗ để người ta có thể lên tiéng đóng góp với đời . Dịch không thể tạo ra một tên tuổi . ấy đại khái người ta cứ nguýt dài mà chê bai như vậy . Có biết đâu ở những tài năng đồng thời lại là những người có vốn học như Xuân Diệu Nguyễn Tuân thì việc dịch được quan niệm khác hẳn . Trong một chừng mực nào đó , có thể nói Xuân Diệu đã mang lại cho người yêu thơ Việt Nam một cách hiểu khác đi về thơ , khi dịch N . Hikmet, B.Dmitrova , một Xuân Diệu như vậy cũng tự hào coi những trang thơ dịch như chính sáng tác của mình .

Riêng với Nguyễn Tuân , phải nói bản dịch Tchekhov lần này chính là một hành động văn học với nghĩa đầy đủ của từ này . Cái sự dụng công mà ông Nguyễn đặt vào bản dịch bao gồm nhiều việc , kể cả cái việc tưởng như rất nhỏ là cách gọi tên nhân vật . Ai người đã đọc sách dịch từ trước 1945 đều biết rằng có một hồi , muốn cho nhân vật trong các truyện phương Tây quen với hoàn cảnh Việt Nam , người dịch có một lối đặt tên lại , chẳng hạn Manon Lescaut được đổi là Mai Nương Lệ Cốt , Turcaret được gọi là Tục ca lệ , Roméo Juiliette được gọi là Lộ Miêu , Duy Liên hoặc Lộ Minh , Duy Lan . Nguyễn Tuân đã làm như vậy , ông đưa vào đây thày quản cu-lít Phát , lão quản Bi, chị Na ; đọc truyện ông dịch, người ta thấy anh đánh xe ngựa Doan đánh xe xuống phố Vi, hoặc lão Binh-bô-rông thuê xe tới hiệu Diêm Ký . Tôi xin miễn không bình luận rằng cách làm như thế này là hay hay dở , riêng cái việc ngày nay nó bị xã hội từ chối không được tiếp tục làm theo , đã là một kết luận dứt khoát không ai cãi lại nổi. Nhưng cho phép tôi nói một kỷ niệm nhỏ . Một câu đùa xoay quanh chuyện một cô gái sống với cái ám ảnh của mấy thanh âm nó làm thay đổi cả cách cư xử của cô và biết đâu cả cuộc đời cô . Câu nói đóng vai trò một cái chốt đó trở đi trở lại đến năm lần trong thiên truyện chưa đầy hai ngàn chữ tiếng Việt . Và nó đơn giản chỉ là thế này :
-- Na ơi, anh yêu em !
Không rõ người khác đọc truyện thế nào , phần tôi , từ lúc đọc thiên truyện đó lần đầu hơn bốn chục năm về trước đến ngày hôm nay , cái câu năm tiếng gọn lỏn đó nó đã hằn vào trí nhớ . Truyện Một câu đùa trở thành truyện Na ơi , anh yêu em . Và không biết tôi có phạm tội thậm xưng, tội nói lấy được (?) , song nhiều lúc nghĩ vân vi cứ có cảm tưởng năm tiếng kia sẽ không khắc sâu vào tâm trí tôi đến thế , nếu nó không được Việt hoá , tức còn giữ nguyên cái hình hài như trong tiếng Nga ( Nadia ,anh yêu em ) .
Đối với trường hợp của lão quản Prisybiev mà ông Nguyễn gọi tóm lại là quản Bi , người ta cũng có thể nói về hiệu quả tương tự . Việc đặt cho nhân vật những cái tên Việt Nam , chỉ là dấu hiệu dễ thấy của một cố gắng lớn lao hơn , mà cũng khó thực hiện hơn là việc Việt hoá toàn bộ thiên truyện , làm cho nó trở thành như là do một nhà văn bậc thày Việt Nam viết ra vậy . Gần đây đã có người cho rằng cả tập Truyện ngắn Tchekhov in năm 1957 không giữ được chất Nga trong nguyên bản . Rất chịu cái nhận xét có lý đó , song tôi nghĩ điều đó không sao cả , ai có nhu cầu đọc các bản dịch Tchekhov dịch thẳng từ tiếng Nga cứ đọc , và chính tôi nữa , khi muốn tìm hiểu chất Nga của Tchekhov , tôi cũng sẽ tìm . Còn như những khi muốn thưởng thức Tchekhov , muốn coi Tchekhov như một nhà văn , qua trang sách tâm sự chuyện trò với mình trò chuyện bảo ban mình về cách sống cách nghĩ , tôi xin được phép cứ tìm đọc và muốn mọi người cùng đọc Tchekhov qua ngòi bút của những Nguyễn Tuân , Trần Dần , Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long ... mà chúng ta đang bàn . Cũng xin nói ngay là cái cách hiểu về dịch phẩm của tôi ở đây không phải lập dị trái khoáy gì mà ở nhiều nước , người ta cũng có quan niệm tương tự . Trong một tài liệu giới thiệu về khoa phiên dịch nói chung ( 1) , một nhà nghiên cứu là Nguyễn Nam cho biết : phiên dịch hiện nay không còn bị bắt chết vào một nghĩa cụ thể . Sự trung thành với nguyên bản không còn là giáo điều duy nhất buộc phải chấp nhận . Mà nay nó được xem như một quá trình xử lý văn bản với nhiều nghĩa khác nhau . Đi xa nhất trong việc này là nhà nghiên cứu André Lefevre, ông bảo hành động dịch thuật có thể được hiểu như một thứ tái trứ tác (rewritings ) , nói nôm na là viết lại , viết một lần nữa , việc này vẫn được các bậc thày trong văn học ưa sử dụng để cải biên cái ngoại lai , cho nó phù hợp với thuỷ thổ của nền văn học mà bản dịch đi tới . Nghe những quan niệm ấy thấy nó rất ứng với cái cách mà Nguyễn Tuân đã dịch . Đọc những trang Tchekhov hoá thân vào văn phong của tác giả Vang bóng một thời , người ta bắt gặp những con người cứ y như là người Việt mình , họ chuyện trò quan hệ với nhau , bẻ hành bẻ tỏi nhau , rồi lại sùi sụt thề thốt với nhau trên nền cái khung cảnh cũng là ở một làng quê phố huyện Bắc bộ nào đó . Cái đó không phải là một cái tội ! Không phải Nguyễn Tuân đớn gì trong việc chuyển ngữ , cũng như trong việc tạo không khí cho dịch phẩm mà mình muốn giới thiệu với bạn đọc . Ngược lại , phải yêu quý dịch phẩm lắm , xem nó như chính tác phẩm của mình , một nhà văn – ở đây là một tên tuổi như Nguyễn Tuân -- mới mạnh tay mà làm vậy . Người ta đã nhận xét rằng khi hoạ chân dung người khác, Nguyễn Tuân đồng thời làm một cuộc trình bày chân dung chính mình . Tôi cho rằng trong cái sự cầm bút ngồi dịch , Nguyễn Tuân cũng vậy . Ông thấy đây là một công việc thiêng liêng . Ông không chỉ chuyển nghĩa cứng nhắc như người dịch vẫn làm , mà có thể nói đã sinh đẻ lại tác phẩm , từ đó tạo ra cho các thiên truyện một giọng điệu riêng , một thứ Tchekhov của riêng ông . Dịch là một cách để ông viết những điều ông hằng nghĩ .



Đã say trong việc dịch, Nguyễn Tuân lại còn để rất nhiều tâm huyết vào bài giới thiệu Tchekhov đặt ở đầu sách . Trừ bài Thời và thơ Tú Xương viết về sau , in trong tập Chuyện nghề , chưa bao giờ cây bút phê bình nghiên cứu ở Nguyễn Tuân ra vai một cách đàng hoàng như vậy . Ông ngược lên tiểu sử nhà văn . Ông duyệt lại các tác phẩm Tchekhov , kể cả những vở kịch mà lúc đó hầu như chưa ai biết gì . Ông dẫn lại điệp trùng những đoạn Gorki , Elsa Triolet ca tụng người đồng hương vĩ đại của mình ( Elsa cũng gốc Nga ) . Và nhất là ông liên hệ văn phẩm của Tchekhov với hoàn cảnh Việt Nam .Với thói quen hay sục sặc sinh sự , Nguyễn Tuân “ bỏ nhỏ “ mấy câu ghi chú bên cạnh thiên truyện Con hoạt đầu :
ở bản dịch tiếng Pháp , tên truyện là Caméléon . Caméléon là một loài bò sát ; ở miền nam gọi tên nó là con kỳ nhông . Kỳ nhông có đặc tính là thay đổi màu sắc để tự vệ mỗi khi cần phải thích nghi với hoàn cảnh thiên nhiên . Con Caméléon nói ở đây là một anh nịnh , nịnh trên nạt dưới . Người dịch tạm cho mình cái quyền dịch tên truyện không theo nghĩa đen mà dịch theo nghĩa bóng . Thực ra trong loài bốn chân không có con gì trong vạn vật học , mang tên là con hoạt đầu . Có lẽ chỉ trong xã hội loài hai chân mới thấy có cái con này .
Nếu lại chú ý tới mấy câu ghi chú Hà Nội cuối tháng bảy 1957 , một ngày lụt cạn , một ngày hàn khẩu một con đê bên kia sông ( 2 ) , người ta phải nhận rằng ông đã viết mấy chục trang tiểu luận ấy theo kiểu một nhà văn ; những văn phẩm tưởng như xa lạ kia hoá ra có liên hệ ngay với đời sống trước mắt , và cái ông nhà văn ở mãi tịt mù bên Nga- la - tư kia , như một con người đang sống , được triệu về để chia sẻ nhiều điều tâm sự trước thời cuộc .

Muốn hiểu cho hết bài giới thiệu Tchekhov mà Nguyễn Tuân đặt ở đầu sách , người ta phải quay về với cái không khí của mấy năm sau hoà bình lập lại tức khoảng 1955-57 , ở Hà Nội .
Từ kháng chiến trở lại thủ đô , đời sống xã hội nói chung cũng như văn nghệ nói riêng mấy năm ấy đặt ra những vấn đề gay go rắc rối hơn bao giờ hết . Sáng tác trong nước không chứa hết được những ngổn ngang vừa đến trong lòng người . Để có được những câu giải đáp , một số cây bút đầy tâm huyết và có điều kiện đọc rộng quay ra tìm ở văn học nước ngoài . Đọc lại một số nhà văn hàng đầu hồi ấy, người ta thấy rằng những tên tuổi lớn của thế giới đã có mặt : Trong nhật ký , Nguyễn Huy Tưởng không chỉ để cho dòng suy nghĩ của mình nương tựa vào I. Ehrenburg , A. Tolstoi mà còn nhắc tới H. Ibsen , A. Gide. Trong tập Những bước đường tư tưởng của tôi, Xuân Diệu đã dẫn lại từ A. Musset , P. Verlain …đến Politzer, Howard Fast . Chính lúc ấy , với tư cách một nhà văn Nga được Gorki tôn sùng , Tchekhov đã có mặt . Trong khi chúng ta quen nói về những gì hào hùng cao đẹp thì Tchekhov nói về những chuyện mè nheo vô vị vủa cuộc đời . Trong khi chúng ta quen nghĩ rằng cái gì cũng có thể làm được thì Tchekhov nói nhiều đến sự bất lực . Trong khi chúng ta quen bảo cái gì cái gì cũng rành rẽ, và tương lai sẽ hiện ra xán lạn , thì Tchekhov bảo rằng cuộc đời nhiều khi mờ mờ xam xám , không biết rồi nó còn trôi giạt đến đâu . Tóm lại , Tchekhov có thể là bạn đồng hành của những ai , khi phải đối mặt với cuộc đời đa đoan rắc rối trước mắt ,mang một chút hoài nghi lành mạnh chứ không chịu đi theo những khuôn khổ có sẵn . Tác phẩm Tchekhov làm được những gì mà sách dịch của NXB Văn nghệ khoảng 54-56 , như Anh thương binh về làng ( Aleksei Tolsoi ) , Chiến sĩ và Tổ quốc ( Nguỵ Nguy ) , Tam lý loan ( Triệu Thụ Lý ) …không thể làm nổi . Lại có cả những vấn đề lý luận đang nổi lên trong đời sống mà trong khi mầy mò tìm kiếm người ta phải viện dẫn tới sáng tác của Tchekhov . Bấy giờ người ta thường tranh cãi với nhau chung quanh trách nhiệm của các nhà văn trước thực tế . Một cách ngẫu nhiên -- hoặc để dùng lại một chữ mà Nguyễn Tuân hay dùng -- theo sự thanh khí lẽ hằng , Tchekhov có mặt . Nhân bàn về Viết sự thật , Xuân Diệu có mấy câu lèo cả Tchekhov vào . Theo Xuân Diệu có một loại nhà văn nói tất cả cái đau xót của xã hội , nói rất thiên tài , nhưng rồi dẫm chân tại chỗ không biết làm sao thoát ra được – mà Tchekhov chính là tiêu biểu . Và thế là Nguyễn Tuân thấy cần phải cãi lại Xuân Diệu để chiêu tuyết cho Tchekhov . Ông tìm thấy ở Tchekhov cái thái độ cần và đủ mà một nhà văn nên có trước đời sống . Dù là sau này Nguyễn Tuân sẽ nghĩ khác đi , nhưng đúng là vào khoảng thời gian 1956-57 này , với tác giả Vang bóng một thời , Tchekhov là một thứ chân trời mà ông hướng tới .Văn chương Tcheskhov vốn có gì mờ đục , không thích hợp với những thời đại quá đơn giản , quá rực rỡ , thì trong hoàn cảnh của mấy năm 1956 –1957 , lại tỏ ra khá thích hợp với xã hội Việt Nam và nhất là thích hợp hơn cả với một người vừa rắc rối vừa thích rành mạch như ông Nguyễn .


Trong lịch sử văn học thế giới , người ta không bao giờ quên ghi danh hai người đồng hương vĩ đại của Tchekhov là L.Tolstoi và F. Dostoievksi. Bên cạnh cái phần khác nhau rõ rệt , giữa hai ông có một sự giống nhau là biết gợi ra những vấn đề trừu tượng bậc nhất của con người . Nhưng chính vì tư tưởng của hai bậc văn hào quá lớn , nên người đời thường nhìn hai ông theo lối “ kính nhi viễn chi “ . Nếu không dối lòng , chúng ta phải nhận là nhiều lúc đọc các ông thấy ngợp , xa lạ, hụt hẫng . Tchekhov thì khác . Sự sâu sắc ở ông thường được giấu kín trong cái vẻ gần như tầm thường, chính vì vậy , khi phát hiện ra , chúng lại có cái sự hấp dẫn riêng . Có thể hình dung Tchekhov như đi cùng đường với chúng ta , nhìn thấy mọi thứ như chúng ta , nhưng bao giờ cũng đi xa hơn một đoạn .
Đây là một số ví dụ :
Những người khác nói rằng con người đáng thương trong sự đau khổ . Còn với Tchekhov , con người đáng thương ngay trong lúc họ hạnh phúc và đạt được mục đích .
Nhân danh tinh thần dân chủ , một số nhà văn thích lý tưởng hoá những sinh linh bé nhỏ , bất hạnh .Tchekhov thì khác . Ông để một nhân vật phát biểu : “ Những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ , ác độc , thiếu tỉnh táo , nghiệt ngã , và ít khả năng hiểu người khác hơn cả những người đần độn “ -- Một nhận xét như vậy , nếu không phải là của một tác giả cỡ như Tchekhov , chắc bị nhiều người cự tuyệt .
Sự vô nghĩa của cuộc sống được Tchekhov xem như một tai hoạ . Còn sự trống rỗng là cái mà Tchekhov sợ hơn cả :
“Một cánh đồng cỏ khô chạy dài , đơn điệu và hoang vu như sa mạc , chắc cũng không làm cho người ta thấy tẻ nhạt , chán chường , như một người ngồi đó , nói năng uể oải và không biết bao giờ mới chịu bỏ đi .
Trong thế giới của Tchekhov , ngay cả những nhân vật thuộc loại tốt đẹp cũng không biết làm gì . Ngược lại , những con người thấp hèn bất hạnh đôi khi cũng biết nói lên những điều hết sức sâu sắc . Thế giới dở dang vậy , nhưng theo cách trình bày của tác giả , dù đã trở thành chán ngấy , nó vẫn đẹp biết bao, nó đáng cho chúng ta sống .
Thời gian qua đi , khoa nghiên cứu về Tchekhov ngày càng có rất nhiều khám phá , những khám phá này có liên quan đến kịch Tchekhov , và nhất là những tác phẩm ông viết khoảng mươi mười lăm năm cuối đời , loại như Câu chuyện tẻ nhạt , Ngôi nhà có căn gác nhỏ , Huân chương hoàng hậu An na , Volodia lớn Voloddia bé …
Đứng ở góc độ này mà xét , phải nhận là nhiều phương diện làm nên tài năng Tchekhov chưa được bộc lộ trong tập Truyên ngắn in ra 1957 . Hoàn cảnh lúc ấy chưa cho phép Nguyễn Tuân và các đồng nghiệp làm nhiều .
Tuy nhiên , chỉ trong phạm vi của các truyện ngắn đã in, Tchekhov cũng đủ trở nên thân thuộc với bạn đọc , nhất là với các nhà văn Việt Nam .
Ngoài khá nhiều câu chuyện linh tinh về các nhà văn đồng nghiệp đương thời , một trong những chủ đề mà nhà văn Nguyễn Khải thường nói với tôi vào khoảng những năm 1968-70 ( khi chúng tôi cùng công tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội ) là những tác giả tác phẩm của văn học Pháp và Nga mà Nguyễn Khải vừa đọc và từng gợi ý cho ông trong sự sáng tác . Ông kể với tôi về những bài báo Satre in trong các tập Situation ( Nhận định ) . Về những cuốn carnet (sổ tay ) của Camus . Về ông Thượng đế “ cái gì cũng biết “ Tolstoi , về thiên tài tàn ác Dostoievski . Mặc dù bấy giờ chung quanh là một không khí thời chiến đặc quánh , nhưng công việc của đám người viết bao giờ cũng thế , phải lùi ra xa mà nghĩ , lùi ra xa để thấy những vấn đề chung của đời sống nó bao trùm lên cuộc sống con người , bất kể là chiến tranh hay hoà bình . Bởi vậy chúng tôi mới có lúc nhẩn nha nói những chuyện đâu đâu như vậy . Chính là trong không khí tuỳ nghi đó mà một lần Nguyễn Khải ngồi giảng cho tôi về một truyện ngắn của Tchekhov :
-- Đọc lại thấy Tu sĩ áo đen cũng ghê. Này , có ngu thì mới bảo là trong đó Tchekhov lên án thói vĩ cuồng , hoặc nói nôm na là cái bệnh háo danh tầm thường . Không , chủ đề của Tchekhov ở đây sâu sắc hơn nhiều . Ông muốn bảo với người ta rằng chính là nhờ có ảo tưởng mà sức lực con người ta lại được giải phóng
Tương tự như trong mẩu chuyện trên đây về Nguyễn Khải , Tchekhov còn nhiều phen có dịp đi về trong những câu chuyện hàng ngày của những nhà văn nhà báo mà tôi có quen : Nguyễn Thành Long, Trần Đĩnh , Huy Phương , Nguyễn Kiên ... Hoặc như với Nguyễn Minh Châu , bên cạnh Lỗ Tấn , thì nhà văn nước ngoài mà ông chịu hơn cả , cũng là Tchekhov .
Thuở ban đầu , điều làm chúng tôi thú vị là mấy tính cách nhân vật loại như Con hoạt đầu , Quản Bi . Rồi chúng tôi thích cái lãng mạn bàng bạc trong cuộc sống kiểu như Một câu đùa và mãi về sau mới dừng lại lâu hơn ở những Người trong bao ( bản dịch 1957 cải là Người mang vỏ ốc ) , hoặc Phòng số 6 ( bản dịch in trên báo Văn ) . Khi đã vào sâu hơn trong nghề , biết những cái khó cái dễ của việc cầm bút , chúng tôi lại sẽ thích nói với nhau về những bài học nghệ thuật ở nhà văn này , chẳng hạn một trong những bí mật , nó là một trong những đặc sắc lỳ lạ của văn xuôi Tchekhov , là cái cách mà một nhà văn tham dự vào câu chuyện được kể .
Vượt lên trên những thiên truyện cụ thể, còn phải nói tới một điểm nữa là số phận của chính Tchekhov ở Việt Nam , những giận dỗi bất thường mà ông phải chịu , nó cũng là một khía cạnh độc đáo liên quan tới quá trình Tchekhov thâm nhập vào đời sống văn học đương thời .
Nguyên là , theo thông lệ của việc làm sách dịch ở Hà Nội , các tác giả cổ điển thường không bị đặt trong thế cần cảnh giác , tức là họ dễ được “ xài ‘ hơn tác giả hiện đại . Thế nhưng thử nhìn vào bảng kê các tác giả văn học cổ điển Nga thế kỷ XIX , người ta vẫn không thể cãi lại một sự thực là trong khi L .Tolstoi được ưu tiên hàng đầu thì F. Dostoievski bị ghẻ lạnh , Chiến tranh và hoà bình được in ra từ 1960, còn Tội ác và trừng phạt thì , không kể bản in ở Sài Gòn , mãi tới 1983 , bản dịch của Cao Xuân Hạo mới được phát hành rộng rãi . Trước đó , Dosstoievski bị coi là có những tư tưởng không hợp thời , và không đáng được giới thiệu . (3)
Tchekhov mà chúng ta đang nói cũng là một trường hợp tiêu biểu cho sự nóng lạnh trong lối tiếp nhận lúc này , dù là nóng lạnh đỏng đảnh theo một cách khác . Những việc mà Nguyễn Tuân và nhóm dịch giả đã làm cho Tchekhov như vậy là quá nhiều , gần như không ai trong số các nhà văn nước ngoài có được may mắn tương tự . Nhưng chính đó lại là cái cách diệu nhất khiến cho Tchekhov bị đánh dấu , nói nôm na là bị coi cùng một duộc với những người đã đứng ra dịch . Cả một khoảng trắng còn đó : Từ sau tập Truyện ngắn này , một thời gian dài , Tchekhov vắng bóng trên các giá sách ở Hà Nội . Không kể tập kịch Tchekhov in ra năm 1961 , thì phải hai mươi năm sau , tới 1978, một tập truyện ngắn của ông ( in làm hai cuốn ) mới lại được giới thiệu với công chúng . Nếu các bản dịch trước đây thông qua tiếng Pháp hoặc tiếng Anh , thì về sau , đó là các bản dịch từ tiếng Nga . Nhiều người nhấn mạnh tới sự chính xác của các văn bản để giải thích sự chậm trẽ . Song theo tôi hiểu ,lý do chính ở đây là sự ngần ngại . Bản thân cái việc có mặt vào năm cái 1957 nhốn nháo đã làm cho Tchekhov mất đi vẻ trung tính bình thường của một nhà văn nước ngoài để nhận lấy cách tồn tại trong thầm lặng . Không chỉ không được làm sách mà suốt những năm sáu mươi và gần hết những năm bảy mươi ,Tchekhov còn không được dịch in trên báo , không được nghiên cứu và rất ít khi được các tài liệu chính thức trích dẫn .
Xét trên một phương diện nào đó thì những hạn chế trong việc xuất bản ấy có làm cho Tchekhov khó đến với bạn đọc . Song trong thực tế , nó lại tạo nên một sức thu hút . Người ta , nhất là các nhà văn , truyền tay nhau những bản thảo cũ . Và nhất là như trên đã dẫn , người ta hay bàn về Tchekhov . Các tác phẩm của ông được tiêu hoá lặng lẽ hơn kỹ lưỡng hơn .
ở một đoạn khác , trong bài viết về phiên dịch học ở trên đã dẫn , nhà nghiên cứu Nguyễn Nam còn nhắc tới một nhận xét của nhà nghiên cứu Susan Bassnet , nó cũng là một khái quát quan trọng cần chú ý khi nghiên cứu các dịch phẩm :
“ …quá trình phiên dịch văn bản từ một hệ thống văn hoá này sang một hệ thống văn hoá khác không phải là một hoạt động trung tính đơn thuần và hiển minh (..) Phiên dịch đã đóng một vai trò cơ bản trong chuyển biến văn hoá và khi chúng ta khảo sát quá trình lịch đại của thực tiễn phiên dịch , chúng ta có thể biết được rất nhiều về vị thế của các nền văn hoá tiếp nhận trong quan hệ với các nền văn hoá của văn bản nguyên thuỷ “ (4)
Nói cho cụ thể , tức là khi một cuốn sách của một tác giả Nga ( hay Trung Hoa , Nhật Bản )được dịch ra tiếng Việt thì bản dịch đó không chỉ thông báo với chúng ta về xã hội Nga ( hay Trung Hoa , Nhật Bản ) , mà điều không kém phần quan trọng là thông báo về chính xã hội Việt Nam .
Trường hợp tập truyện ngắn Tchekhov in 1957 là một minh hoạ xác đáng cho những nhận xét nói trên . Nó đã trở thành một vật chứng cho cái giai đoạn văn học mà nó ra đời , và trong việc này , mặc dù chỉ có tư cách một dịch phẩm , nó có phần vượt hẳn lên trên , so với các sáng tác xoàng xĩnh , để đứng ngang hàng với những tác phẩm quan trọng của các nhà văn trong một giai đoạn mang tính cách giao thời .

Lẽ thường , yêu ai đó thì cố tìm ra chỗ người đó gần gũi với mình . Tình yêu với Tchekhov cũng đã lôi cuốn một số nhà văn và nhà nghiên cứu vào cái công việc thú vị là so sánh ông với các tác gia Việt Nam . Có người bảo ông gần gũi với Nguyễn Công Hoan . Lại có người thấy bóng dáng của ông trong Nam Cao. Phần tôi , tôi nghĩ cả hai trường hợp này đều không phải . Anh béo và anh gày , cũng như Cái chết của viên công chức , Cái mề đay, Những giọt nước mắt đời không trông thấy …là những truyện rất hay và cũng là những truyện được nhiều người đọc nữa , nhưng không thể thu hẹp Tchekhov ở loại văn phong này , nên sự so sánh với Nguyễn Công Hoan là không có cơ sở . Còn như đọc Nam Cao , thấy có gì gắt quá ráo riết quá , người viết chăm chú vào ý nghĩ của mình đến mức không cho người đọc một chỗ nào thừa để suy nghĩ , nói chung văn Nam Cao thiếu sự lùi xa , thiếu cái khoảng khoát hồn nhiên có đượm một chút hư vô , nên giữa nhà văn này với Tchekhov là cả một độ chênh về cách nghĩ , họ như hai loại cây khác hẳn nhau , không thể so sánh .
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI , trong hoàn cảnh một đất nước vừa ra khỏi chiến tranh , cuộc sống chúng ta hôm nay ồn ào tấp nập , con người lăng xăng đủ chuyện và thật lắm lời lắm lý sự . Ngược lại trong Tchekhov , con người muốn làm một việc gì đó , nhận ra có nhiều ý nghĩa trong việc sẽ làm ,đã sắp sửa làm , rồi sau hết lại không làm . Nhưng tận bề sâu , sao giữa hai bên vẫn có cái gì gần gũi : Nói như nhà nghiên cứu N. Berkovski , thế giới mà Tchekhov miêu tả là một cái gì đã sờn mòn . Một cuộc sống dang dở lờ mờ tốt lờ mờ xấu tồn tại trong cái thế chờn vờn bảng lảng như bóng ma Đạm Tiên “ sen vàng lững thững như gần như xa “ . Thiên nhiên thì đẹp mà con người mệt mỏi , bất lực . Hãy nhìn lại mình hãy ngẫm nghĩ xem thực ra mọi người đã sống tồi tàn tẻ nhạt đến như thế nào .Thật chua chát mà nghĩ rằng làm sao có thể đê tiện như vậy mà xuống mồ . Những ý nghĩ tương tự từ đâu đó thoáng hiện rồi hằn lên rõ rệt trong tâm trí và không sao dứt bỏ nổi .
Người mình thường ngầm cảm thấy gần Tchekhov ở những suy nghĩ kiểu đó chăng ?
Nếu nói về sự độ lượng trong thái độ đối với con người , một cách nhìn tưởng như là dửng dưng mà lại đằm thắm trước đời sống , thì trong số các nhà văn Việt Nam , tôi thường nghĩ nhiều tới Thạch Lam ; ở phần sâu xa của cách cảm cách nghĩ ,Thạch Lam có những khía cạnh gần với Tchekhov ; ở phần sâu xa của cách cảm cách nghĩ ,Thạch Lam có những khía cạnh gần với Tchekhov ..
Nhưng chỉ chút chút mà thôi .
Dẫu sao, từ trước tới nay rất ít khi các tác giả nước ngoài được suy nghĩ theo hướng mang ra so sánh với các nhà văn Việt Nam như thế này . Phải nhận đây là một ngoại lệ thú vị . Chỉ riêng việc chúng ta phải nghĩ để nhận ra chúng ta khác với các nhân vật của Tchekhov thế nào cũng đã có tác động thức tỉnh . Nói cho to tát tức là Tchekhov đã trở thành một nhân tố kích thích quá trình tự nhận thức của xã hội Việt Nam . Mà tất cả khởi đầu chính từ cuốn Truyện ngắn tuyển tập làm năm 1957 ./.

(1) Nguyễn Nam Phiên dịch học và văn học so sánh : một hướng tiếp cận văn học Việt Nam Tạp chí văn học ,số 9 , tháng 9-2001 , tr. 61-72
(2) Tức vụ vỡ đê Mai Lâm
(3) Xem thêm Vương Trí Nhàn Một hồ sơ nhỏ về Đốt , in trong Ngoài trời lại có trời , NXB Hội nhà văn, H 2003
(4) Nguyễn Nam , tlđd , tr. 63

Cái mới cơ bản của văn học thế kỷ XX

Để chuyển dịch cả một nền văn học (và rộng hơn cả nền văn hoá) từ mô hình trung đại sang mô hình hiện đại, cần có cả một quá trình. Đó là quá trình hiện đại hoá văn học khởi động từ đầu thế kỷ, và đến 1945, coi như đã hoàn thành một chặng cơ bản (Còn như tới những năm tám mươi, chín mươi, một quá trình hiện đại hoá lại đang xảy ra, thì đó là một việc khác, có sắc thái khác).

Tinh thần hiện đại mang lại những gì gì cho văn học Việt Nam

Trong một loạt bài đăng trên tạp chí Thanh Nghị , hoạ sĩ Tô Ngọc Vân từng thẳng thắn nhận xét : Trước thời Âu hoá , hội hoạ VN gần như chưa tồn tại và chưa có mặt

Đối với một số ngành khác như âm nhạc người ta cũng phải nói vậy
Riêng đối với văn học tình hình có khác . Dù xét ở bất cứ góc độ nào , người ta vẫn phải công nhận là từ thế kỷ XIX về trước , văn học VN đã tồn tại,tức nó đã là một thực thể độc lập , có tác động tới xã hội,và con người trên mảnh đất này thì hết sức tự hào về nền văn học của mình .
Thành thử khi muốn tìm hiểu những gì tạm gọi là thế kỷ XX mang tới cho văn học VN cũng tức là nhận diện những yếu tố làm nên cái mới của văn học VN so với các thế kỷ trước,người ta ít nhất phải có một sự phân biệt :
a/ những gì ở VN trước đây chưa có mà sau thời Âu hoá mới có .
b/ Những gì ở VN trước đây đã có nhưng tồn tại theo một kiểu thức khác và mức độ khác .

Nhận thức của các nhà văn học sử
Như trên đã trình bày,văn học VN thế kỷ XX ,thường không được các nhà văn học sử VN suy nghĩ như một đơn vị thống nhất.Thì lẽ dĩ nhiên cái tinh thần của thế kỷ XX ít được suy nghĩ để gọi ra một cách chính xác .
Tuy nhiên đây đó , chúng tôi vẫn bắt gặp


Cái mới bắt đầu từ quan niệm
Trong các phần trên , chúng tôi đã lược qua những đổi mới của đời sống văn học: môi trường văn học thay đổi;mối quan hệ giữa môi trường các hoạt động báo chí xuất bản trở thành một thứ bệ phóng thường xuyên ; mối quan hệ giữa văn học và đời sống trở nên trực tiếp,mở đường cho sự biến cải các thể tài cũ,và sự du nhập các thể tài mới như tiểu thuyết …
Tuy nhiên nếu tìm tới một điểm thay đổi cơ bản,nó là cái hích đầu tiên,khiến cho mọi khâu khác biến chuyển theo thì chúng tôi cho rằng cái chính là với thế kỷ XX , cả một quan niệm về văn học đã thay đổi. Thời nào thì một tác phẩm văn học cũng vẫn là công trình lao động do ai đó viết ra.Có điều để hình thành một tác phẩm như thế , trong tâm trí người viết phải hình thành ở mức độ nào đó hàng loạt quan niệm : mình viết ra để làm gì ? Rồi cái sáng tác mình viết ra ấy sẽ tồn tại ra sao?Trong lúc này có ai cũng viết như mình không?Và bản thân mình cũng vậy,ngày mai còn viết như thế này nữa không? Tại sao mình bắt buộc phải viết,không thể không viết?Nói cách khác sự sáng tác liên quan đến cuộc đời mình,sự tồn tại của bản thân và gia đình vợ con mình như thế nào ?
Trở lại với tình hình xã hội VN sau khi về tay người Pháp.Văn học lúc đó là gì , nếu không chỉ là một ít lời than khóc trước một hoàn cảnh bi đát,tiếp đó là lời hứa hẹn sẽ có ngày khôi phục lại đất nước . Những tên tuổi được nhắc trong văn học lúc ấy là Nguyễn Đình Chiểu , Phan Thanh Giản , Nguyễn Thượng Hiền . Và nhìn vào cách tồn tại có thể thấy trên đại thể văn học là một tiếng nói tự phát của con người trước hoàn cảnh . Tiếng nói ấy …
Lại như nhìn vào hai nhà thơ khác là Nguyễn Khuyến và Tú Xương.Người thứ nhất gắn với nông thôn hiền lành cam chịu. Người thứ hai gắn với đô thị ngổn ngang.Nhưng họ vẫn tiếp tục là tiếng nói tự phát của con người,thơ được viết ra nhằm giải toả những ẩn ức .
Thơ họ chỉ được truyền tay. Rất ít người đương thời được biết là có thứ thơ văn đó trên đời
Đối chiếu cái thời xa vắng ấy với đời sống văn học những năm ba mươi thế kỷ XX trở đi,chúng ta thấy cả một trời khác biệt: Văn học tự nhiên bày ra như người có mặt,thành một đầu việc Báo chí xuất bản như những chiếc băng chuyền khổng lồ hàng ngày đưa sáng tác mới tới bạn đọc. Ai làm gì mọi người biết ngay
Từ chỗ là tiếng nói tự phát,nay văn học trở thành một ngành sản xuất tinh thần trong xã hội,làm ra để phục vụ người khác là đông đảo bạn đọc .
Tạm ví : nếu văn học hôm qua như ngành nông nghiệp các tỉnh các địa phương tự túc và ai biết người nấy thì nay văn học hôm nay trở thành một mặt hàng công nghiệp ( hoặc thủ công nghiệp ) sản xuất đều đều .
Có thể nêu ra hai trường hợp để so sánh .
Có lần,sau khi làm xong một đôi câu đối, Tú Xương sung sướng lắm . Cái cách sung sướng của ông được bộc lộ như thế nào. Ông kể trong một bài thơ khác :
…. dán ngay lên cột Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay -- Rằng hay thì thật là hay Chẳng hay mà lại đỗ ngay tú tài . Xưa nay em vẫn chịu ngài
Theo sự quan sát sơ bộ của chúng tôi,Tú Xương thật có tư duy làm báo:lấy tin ngay ở nơi mình đang sinh sống.Và viết nhanh viết rất hoạt,từ chuyện cá nhân biết đưa lên thành điẻn hình.Chỉ tiếc ông sống thời thành phố quê hương ông là Nam Định chưa có báo.Lại như trường hợp Nguyễn Công Hoan Nếu như cuốn truyện đầu tiên của nhà văn này,cuốn Quyết chí phiêu lưu(1923) được ông viết ra rồi xếp xó thì chỉ mười năm sau thôi, mọi sáng tác của ông đều gắn với một tờ báo nào đó. Có hồi ông viết cho mục Xã hội ba đào ký của An Nam tạp chí. Một lần đứng ở hiệu sách ông thấy một người mua An Nam tạp chí vừa giở ra đã than thở “ Chán quá !Kỳ này lại không có Xã hội ba đào ký. Thế là ông vui hẳn lên.Từ chỗ làm cho vui,nay Nguyễn Công Hoan đã hướng tới một độc giả cụ thể .


Sự biến đổi trên phương diện nội dung

Vận dụng cách nhìn của văn hoá học,trong các phần trên,chúng tôi đã nói nhiều tới những yếu tố hình thức của văn học thế kỷ XX ( trong sự liên quan của các hình thức đó với nội dung của văn học ).Song,nhờ kết quả của những vận động hình thức đó,quá trình hiện đại hoá đồng thời cũng là quá trình mà rất nhiều tư tưởng phương Tây , có dịp xâm nhập xã hội Việt Nam trong đó các xu thế dân tộc hoá,và dân chủ hoá đóng vai trò những định hướng liên tục và ổn định. So với văn học trung đại,nền văn học Việt Nam hiện đại thực sự trở thành một nền văn học dân tộc,với nghĩa đầy đủ của từ này. Mặt khác cũng chỉ đến giai đoạn hiện đại, tinh thần dân chủ vốn sẵn có trong văn chương các thế kỷ trước, mới được hoàn thiện. Và đỉnh cao của tinh thần dân chủ đó chính là chủ nghĩa nhân đạo


Lần đầu tiên đối diện chính mình

Dù dựa vào một cốt truyện ngoại nhập,song Truyện Kiều vẫn là một cuốn sách mà nhiều người Việt thường nghĩ rằng Nguyễn Du đã viết cho chính mình.Tính dân tộc của một tác phẩm trước tiên là ở điệu tâm hồn cũng tức là cái phần hồn cốt toát lên giữa các dòng chữ. Có điều cũng phải nhận là do chủ yếu sử dụng bút pháp ước lệ,các tác phẩm văn học cổ điển nói chung Truyện Kiều nói riêng không có khả năng đưa đứợc cái thực tại đời sống dân tộc lên trang giấy .
Thử làm một cuộc so sánh:đọc lại những Tố Tâm,Nửa chừng xuân,Tắt đèn,Quê người .... , người đọc các thế hệ sau hoàn toàn có thẻ hình dung con người Việt Nam thế kỷ XX, sinh hoạt thế nào quan hệ với nhau ra sao, cũng như từ đó có thể tưởng tượng ra cảnh vật làng quê hay đô thị nơi đó
Còn đọc Truyện Kiều hoặc Nhị độ mai thì chịu .
Đây một phần là lý do khiến cho thanh niên học sinh ở ta thiếu hào hứng khi tiếp xúc với văn học cổ điển .
Chẳng cần có lý luận cao siêu gì người ta cũng thấy ngay rằng cái việc miêu tả nói trên là một phần làm nên cái chất riêng và đó chính là yếu tố góp phần làm nên sự hấp dẫn của văn học hiện đại. Chẳng những thế nó còn góp phần biện hộ cho một thành kiến :
Một trong những lý do khiến cho nhiều người khi nghe nói rằng“ hiện đại hoá đồng nghĩa với Âu hoá “cứ thấy ngần ngại , ấy là vì họ e sợ chẳng nhẽ như vậy là văn học ta đánh mất mình ?

Một cuộc giải phóng thực sự

Do những khó khăn của chữ Hán mà chữ nôm lại càng khó hơn,người sáng tác văn học trong các thế kỷ trước phải là người của các tầng lớp trên.Ngược lại chữ quốc ngữ dẫu sao cũng có cái dễ của nó,chỉ học vài tháng là người có năng khiếu đã có thể

Sự mở rộng hay sự đi xuống đi sát với

Ngoài việc ngày càng có nhiều người ở các tầng lớp dưới đáy tham gia vào hoạt động sáng tác tính chất dân chủ của văn học hiện đại căn bản được bộc lộ qua nội dung miêu tả của nó
-- một là xét chung thì thấy số lượng các nhân vật có nguồn gốc ở các tầng lớp dưới đáy được mở rộng .
-- Hai là
Nhà thơ Xuân Diệu từng kể: Vào khoảng 1947-1948, khi văn học tìm cách "nhận đường" (chữ của Nguyễn Đình Thi),"lột xác" (chữ của Nguyễn Tuân) để phục vụ cho cuộc kháng chiến thì cũng là lúc bắt đầu thấy xuất hiện một dòng thơ thô nhám chắc khoẻ như lời ăn tiếng nói của quần chúng lao động. Đó là các bài Viếng bạn của Hoàng Lộc, Nhớ của Hồng Nguyên, Đồng chí của Chính Hữu v.v... Với một kiện tướng của Thơ mới như Xuân Diệu thì những bài thơ này quá xa lạ. Xuân Diệu kể "khi Tố Hữu đọc lên một bài thơ mới Viếng bạn, tôi phát biểu "chẳng thấy hay". Tố Hữu đã rất bầu bạn làm trạng sư cho bài thơ, đưa tôi vào cái không khí của bài (...). Từ đêm hôm ấy, tôi vỡ lẽ ra, dần dần chuyển cách thức ăn nếm của mình". ở đây, Xuân Diệu đã đề cập tới một hiện tượng lịch sử, nó sẽ kéo dài khá lâu, không chỉ những Hồng Nguyên,Hoàng Lộc, Trần Mai Ninh mà về sau,cả Phạm Tiến Duật với những câu thơ được nhiều người yêu thích hồi chống Mỹ (Không có kính không phải là không có kính" với lại "Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha" )cũng là nằm trong cái mạch ấy.Tuy nhiên,điều quan trọng hơn là qua ví dụ này, Xuân Diệu cho thấy quá trình thay đổi luôn luôn diễn ra.Từ Tản Đà đến Xuân Diệu,tưởng đã là một bước ngoặt. Nhưng sau Xuân Diệu của Thơ Thơ,Gửi hương cho gió, với những câu thơ kiểu như Nõn nà sương ngọc quanh thêm đâu hoặc Lung linh ánh sáng bỗng rùng mình, còn có Xuân Diệu của Ngôi sao, Riêng chung, Hai đợt sóng... với những bài thơ kiểu như Bà cụ mù lòa, Ngói mới hoặc những câu thơ kiểu như Con đỉa vắt qua mô đất chết.

Sự giải phóng rộng rãi các cá tính sáng tạo
Suy cho cùng, sở dĩ văn chương theo nghĩa hiện đại có thể thay thế văn chương cổ, để có vị thế vững chắc trong lòng xã hội Việt Nam thế kỷ XX,đó không chỉ là do nhu cầu lịch sử mà một phần còn là do khả năng của nó (văn hoá) trong việc giải phóng sức sáng tạo. Và chính là nhờ vào chỗ biết khai thác sự độc đáo của cá nhân các văn sĩ, thi sĩ, mà nền văn học mới đã tạo nên được một nếp sinh hoạt tấp nập hơn hẳn thời trung đại.
Hãy bắt đầu bằng một hiện tượng đã được lịch sử ghi nhận: phong trào Thơ mới.
Cái tài của Hoài Thanh khi viết Thi nhân Việt nam 1932-1941 là biết gọi ra trong một hai chữ những đặc điểm riêng của các thi sĩ đương thời chẳng hạn hồn thơ rộng mở ở Thế Lữ, mơ màng ở Lưu Trọng Lư, hùng tráng ở Huy Thông, trong sáng ở Nguyễn Nhược Pháp v.v... Tuy nhiên, một điều quan trọng hơn, ấy là Hoài Thanh nhận ra sự nở rộ cá tính là một hiện tượng mà chỉ thế kỷ này mới có. Trước khi nói về từng người, ông lưu ý rằng “trong lịch sử thi ca Việt Nam, chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này và chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần” những giọng thơ khác nhau như vậy. Phải nói đây là một nhận xét có ý nghĩa khái quát: Nó không chỉ đúng với thơ mà còn đúng với văn xuôi. Không cần suy diễn một chút nào, cũng có thể bảo chưa bao giờ trong các trang truyện bài ký, người ta thấy một ngòi bút duyên dáng và cận nhân tình như Khái Hưng tâm huyết và đau đớn như Vũ Trọng Phụng hoặc tinh tế mà lại trang trọng như Nguyễn Tuân... Rộng hơn mà xét,có thể mượn cách nói của Hoài Thanh để khái quát cả về văn học nửa sau thế kỷ.Ngay trong những năm cách mạng và kháng chiến, văn chương Việt Nam trong khi làm hết sức mình để góp phần vào sự nghiệp chung, vẫn tiếp tục khai thác cái đa dạng của các ngòi bút. Có lần, vào năm 1961 trong một bài viết về thơ, Chế Lan Viên đã tâm sự:“Sau một sự suy nghĩ của Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, ta muốn có một cái nhìn nhẹ nhõm tươi mát của Bàng Sĩ Nguyên, bên cạnh cái ngọt ngào như suối của Tố Hữu, Tế Hanh, tôi vẫn thèm sự trục trặc gân guốc của Trần Mai Ninh và nếu có cái nhìn giản dị đáng mến của Trần Hữu Thung. Anh Thơ thì cũng phải có cái nhìn phức tạp của Nguyên Hồng... Nhờ có mỗi nhà thơ như thế, ta lại có thêm một cách riêng để nhìn sự vật”.
Ở chỗ này, chúng ta nhận ra một hướng đi nhân đạo của văn chương thế kỷ XX so với các thế kỷ trước. Nhìn một cách bao quát thì một trong những quy luật của đời sống tinh thần trong thời trung đại là xã hội tìm mọi cách để hạn chế cá tính của con người. Một Hồ Xuân Hương tai quái vẫn được tìm đọc đấy, nhưng thực tế là đã bị loại trừ khỏi văn chương chính thống để tồn tại như một ngoại lệ. Còn một tài năng lớn như Nguyễn Du lúc nào cũng sống trong lúng túng sợ sệt. Ai mà tính hết đuợc sự nghiệt ngã của những quy phạm văn chương trung đại đã làm tiêu tán khát vọng sáng tạo của bao tài năng khác? Ngược lại,với thế kỷ XX, người cầm bút có một niềm tin chắc chắn. Họ biết là mình có thể và phải trở thành chính mình. Họ lấy chính những độc đáo cá nhân ra để trò chuyện với xã hội. Mà nguồn gốc của những độc đáo cá nhân này vốn rất đa dạng, có khi là ở sắc thái của cái địa phương mà nhà văn từ đó lớn lên, hoặc những nguồn văn hoá mà người ấy tiếp nhận, có khi lại phụ thuộc vào những yếu tố riêng tư và ngẫu nhiên, những từng trải, bệnh tật,ý thích riêng trong sinh hoạt hoặc những bất hạnh từng gặp trên đường đời. Đặc điểm của sự sáng tạo là thế, nhà văn càng được giải phóng về mặt cá tính thì đời sống văn học nói chung càng dễ trở nên phong phú. Mặt khác muốn hay không muốn, sự giải phóng cá tính ở các nhà văn bao giờ cũng là một lời mời gọi, một nhân tố thúc đẩy cho sự giải phóng cá tính nói chung ở các cá nhân trong cộng đồng mà một xã hội tự nhận là cởi mở không thể từ chối.

Đưa quan niệm về con người lên một trình độ mới

Một trong những truyền thống lớn của văn học Việt Nam trong thời trung đại là tinh thần nhân đạo. Đọc các tác phẩm của Nguyễn Du,từ Truyện Kiều tới Văn chiêu hồn, người ta cảm động vì lòng thương mênh mông của ông đối với con người. Trong khi đó, đọc Hồ Xuân Hương,mỗi người như có dịp trở về với cái tôi tự nhiên và thấy tự tin hơn trong những khao khát giản dị mà chính đáng của mình. Sở dĩ đến ngày nay, nhiều thế hệ bạn đọc còn tiếp tục tìm đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương hoặc nhiều tác giả lớn khác ấy cũng là vì trong các tác phẩm mà các thiên tài để lại,người ta tìm thấy sự thông cảm với những chua xót của kiếp người trong khi vẫn được ngấm ngầm cổ vũ rằng mỗi cá nhân hãy sống đúng với tầm người hơn nữa.
Tinh thần nhân đạo theo kiểu cổ điển ấy, vốn không xa lạ với nền văn hoá phương Tây mà từ đầu thế kỷ XX được du nhập mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam và cả hai kết hợp lại đã mang tới nhiều trang văn ấm áp tình người. Qua những truyện ngắn đạm bạc, một nhà văn như Thạch Lam đã cho thấy ông có một trái tim dễ run rẩy, lòng ông thật dễ thông cảm với mọi đau khổ, cũng như có một sự ân cần riêng với những kiếp người xấu số, như kiểu nhân vật chính trong Nhà mẹ Lê. Hoặc có thể coi mấy truyện ngắn như Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí... của Kim Lân là tiếng nói của những người “đầu thừa đuôi thẹo” bị xã hội coi rẻ nay muốn tự khẳng định. Mà đây chỉ là hai ví dụ dễ thấy nhất giữa nhiều trang sách nhân hậu đã được viết ra. Thế nhưng, chỗ đáng lưu ý nhất của tinh thần nhân đạo văn chương thế kỷ XX là ở chỗ nó không chỉ nói yêu thương thuần tuý, mà đặt sự yêu thương trên cơ sở hiểu biết, khám phá về con người. Như chúng ta đã biết, một nguyên tắc chủ đạo của nền văn chương thế kỷ này là hướng về thực tại, hướng về thế giới trần tục, (chứ không sùng cổ và ước lệ như văn học trung đại). Theo phương hướng ấy, các nhà văn dường như đua nhau trong việc đi vào khám phá phát hiện bản chẫt con người và sự thực, đây là một cuộc tìm tòi vô tận. Đứng lùi ra xa mà nhìn, có thể hình dung các tác phẩm đã được viết như cả một khu trưng bày lớn, ở đó hiện ra đủ loại kiếp người: Họ đi đủ nơi và làm đủ việc khác nhau, náo nức sống; thiết tha muốn hưởng mọi lạc thú của đời sống cũng có, mà thụ động theo sự xô đẩy của đám đông cũng có; bèo bọt trôi nổi đãlắm, mà quyết liệt đi tới, làm chủ số phận của mình và đóng góp cho sự nghiệp chung, số đó lại càng nhiều hơn. Còn nhớ, ngay trong một kiệt tác của văn chương cổ điển như Truyện Kiều, con người luôn luôn bị định mệnh chi phối và lối nhìn của các tác giả phân chia ra một bên là nhân vật chính diện, bên kia là phản diện không khỏi tạo ra những xơ cứng giả tạo. Về phần mình, con người trong các tác phẩm tạm gọi là thành công của thế kỷ XX thường được miêu tả như chính nó vốn vậy,mỗi người người có một cách thế làm người riêng, mỗi tính cách nảy sinh trong hoàn cảnh lịch sử, nhưng lại tự chịu trách nhiệm về mình, chứ không do một thế lực siêu nhiên nào định đoạt. Trong một số trường hợp may mắn, có thể nói văn chương đã xây dựng được những điển hình khái quát kiểu như Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách,Chị Dậu của Ngô Tất Tố,A Phủ của Tô Hoài,Chị Tư Hậu của Anh Đức,... Và đây nữa, loại nhân vật chỉ riêng thế kỷ XX mới có - những con người đơn nhất, độc đáo đi gần tới sự kỳ dị: Nếu ở thơ hình tượng tác giả hiện ra ở thơ Hàn Mặc Tử,thơ Bích Khê hoặc về sau, thơ Bùi Giáng, thơ Đặng Đình Hưng... đã kỳ lạ, thì ở văn xuôi, người ta lại nhớ tới những Xuân tóc đỏ, Chí Phèo hồi tiền chiến, và gần đây là những Ông Khúng của Nguyễn Minh Châu, Anh Sài của Lê Lựu hoặc một số nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp. Những điển hình này và nhiều nhân vật tương tự mở ra cho người ta thấy cả tầm rộng, cả chiều sâu, cái vẻ đa dạng trong khái niệm về con người trong xã hội hiện đại và nói cho to tát lên một chút thì đấy chính là chiến thắng của chủ nghĩa nhân đạo mới.
Nguồn gốc sâu xa của sự đa dạng trong số phận con người hôm nay, cố nhiên, là ở những biến động đã đến trong xã hội. Thế nhưng, cũng phải đến thế kỷ XX, với những nguyên tắc thi pháp mang tính hiện đại của mình, văn chương mới làm được công việc lớn lao là đưa những con người ấy hiện hình trên trang giấy. Riêng ở khía cạnh này thôi, văn học hiện đại đã là một bước tiến khá xa, so với văn học truyền thống.
Sự liên tục của thế kỷ
Vào khoảng 1900, ở cả Hà Nội cũng như Sài Gòn, chưa có một tờ báo nào có tầm hoạt động rộng rãi thâu tóm được dư luận, lại càng chưa có tờ báo nào tính chuyện phỏng vấn mọi người xem trong thế kỷ XX, văn học Việt Nam sẽ phát triển ra sao. Nhưng giả sử một tờ báo như thế đã có và một cuộc phỏng vấn như thế đã được tổ chức, thì chắc hẳn các ý kiến phát biểu còn rất đơn sơ nhất là chẳng có gì tương ứng với điều xảy ra trong thực tế. Bởi dự đoán là gì, nếu không phải là dựa vào những cái đã biết? Mà sự biến đổi đã đến với văn học Việt Nam thế kỷ XX thì quá đột ngột,nó là chuyện gần như chưa từng có chút mầm mống nào trong quá khứ. Như trong các bài viết trước đây chúng tôi đã trình bày, người ta có thể quan sát thấy thế đối lập giữa văn chương thế kỷ này với các thế kỷ trước trên tất cả các phương diện: ngôn ngữ văn tự hệ thống thi pháp chi phối các nhà văn, quan niệm về thể loại và quy phạm trong từng thể loại v.v... Đồng thời với sự ra đời của một môi trường văn học hoàn toàn mới, rồi các chủ thể sáng tác cũng được hình thành một cách khác đi và quá trình này xảy ra với một tốc độ ít ai ngờ tới. Lấy thêm một ví dụ: Khi phong trào Thơ mới đang xác lập những nguyên tắc sáng tác của mình, Thế Lữ có bài thơ mang tên. Cây đàn muôn điệu, với những lời tâm sự đại loại: ". Tôi là người bộ hành phiêu lãng - Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi (...) . Tôi chỉ /à một khách tình si - Ham vẻ đẹp có muôn hình muôn thể. Vào thời điểm 1934- 1935, những câu thơ như trên được xem như những tuyên ngôn quá mới mẻ, nhiều người không chấp nhận nổi, thậm chí có nhiều người đã nghĩ như vậy cũng thấy nói ra chưa tiện. Nhưng rồi chỉ dăm bẩy năm sau, những ý tưởng ấy đã trở nên quá quen thuộc, và ngày nay nó là chuyện abc trong nghề, đã cầm bút ai cũng chia sẻ. Nhắc lại chuyện này để thấy một khi mỹ cảm ở những người sáng tác và bạn đọc đã thay đổi, thì văn học đã thay đổi nhiều lắm.
Cách mạng tháng Tám mang lại cho lịch sử Việt Nam một bước ngoặt rõ rệt. Sau gần nửa thế kỷ xây dựng, nền văn học Việt Nam lúc này đã cứng cáp trưởng thành. Giờ đây, nền văn học ấy tự đặt cho mình một mục đích khác trước, cách tác động tới xã hội khác trước. Riêng với những người cầm bút, thì từ chỗ là những người lao động tự do, nay các nhà văn đã trở thành “những chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ”, và hoạt động theo một định hướng tư tưởng thống nhất do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Đó là một đặc điểm cơ bản mà khi nghiên cứu văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX không thể bỏ qua.
Tuy nhiên, xét trên nhiều mặt, giữa văn học Việt Nam trước và sau 1945 vẫn có một sự liên tục, đến mức hoàn toàn có lý do chính đáng để xếp cả hai nằm trong một phạm trù chung là văn học hiện đại. Trong ngôn ngữ học, hai chữ đối lập được dùng với nghĩa thuần tuý hình thức, tức là lấy cái này đặt bên cái kia để làm nổi bật sự khác nhau. Mượn thuật ngữ đó của ngôn ngữ học, ở đây chúng tôi muốn nói chúng tôi không đối lập văn học Việt Nam trước và sau 1945 (đó là một việc khác ai đó sẽ làm trong một dịp khác), mà tìm cách đối lập toàn bộ văn học Việt Nam thế kỷ XX với nền văn học từ thế kỷ XIX trở về trước, đối lập văn học hiện đại với văn học trung đại. Đây cũng là một hướng nghiên cứu cần thiết và có thể nói là có hứa hẹn.




Những cách viết văn học sử vốn có và Thế nào là cách tiếp cận theo hướng văn hoá học ?

Trở lên chúng tôi đã nói lý do tại sao lại chọn thế kỷ XX làm đơn vị thống nhất . Đã đến lúc phải bàn cụ thể cái cách đi vào đời sống văn học
Nhìn lại các bộ sách văn học sử
Suy cho cùng, nói tới văn chương là phải nói tới tác phẩm. So sánh văn học trước thế kỷ 20, và từ đầu thế kỷ trở đi, một số nhà nghiên cứu đã nói tới các nguyên tắc chi phối công việc sáng tạo (một bên hướng về mẫu mực từ chương, một bên hướng về cái thực), những hệ thống thể loại (một bên văn thơ phú lục, một bên thơ- tiểu thuyết-kịch) v.v... Nhưng trước khi nói tới những cái đó, có lẽ cần lưu ý tới những khía cạnh có vẻ bên ngoài văn học, như sự hình thành môi trường xã hội; các thiết chế để lưu hành phổ biến cùng là đánh giá văn chương, rồi bản thân chủ thể văn hoá, tức là tâm thế của nhà văn khi cầm bút v.v...



Có những việc nhỏ như cách ăn, cách mặc, cách quan hệ và làm việc, nhiều người sống hôm nay cứ tưởng từ bao thế kỷ người Việt vẫn vậy, sau xem lại mới biết nó vừa bắt đầu từ thế kỷ 20. Sự sáng tạo trong văn nghệ cũng vậy. Nói một cách tóm tắt, khoảng một trăm năm gần đây, văn chương đã tạm từ giã những quan niệm và cách làm văn của phương Đông ngự trị trong các thế kỷ trước, để ngả theo lối làm của phương Tây - một sự tiếp nhận mà một nước rất gần ta như Trung Quốc cũng đã bắt đầu từ giữa thế kỷ 19. Nói như nhà văn Đặng Thai Mai: “Vấn đề văn hoá ở Trung Quốc trong khoảng 100 năm nay cũng là một vấn đề nhập cảng: thâu thái những kiến thức về kỹ nghệ về khoa học để cải tạo nền văn hoá “ngàn xưa” của nước Tàu. (Xem bài Vấn đề dân tộc hoá, đăng trong Nguồn sống mới đặc san của tạp chí Tiên Phong, Tết 1946).

sự sáng tạo văn chương chuyển hẳn sang một giai đoạn mới như vậy, là nhờ vào một quá trình nhọc nhằn: quá trình hiện đại hoá kéo dài vài chục năm liền (ít nhất cho tới đầu những năm ba mươi).
Có điều, dưới đây, chúng tôi sẽ không trở lại với cái quá trình đã hoàn thành ấy mà chỉ cố gắng tìm hiểu những kết quả mà nó mang tới, tức là cách thức chúng ta hôm nay viết văn, đọc văn, nghĩ về văn...
Thay lời kết
Tổng kết văn học Việt Nam thế kỷ XX là một việc làm, đòi hỏi công sức của nhiều người. ở đây, chúng tôi chỉ xin hạn chế ở việc cung cấp một số tài liệu cho thấy nhịp sống sôi động và những khía cạnh mới mẻ làm nên tính hiện đại của nền văn học trong thời đại mới .
SỐ TRUY CẬP