(trao đổi với Vương Trí Nhàn)

Với độc giả chúng ta là người không có lỗi!
(trao đổi với Vương Trí Nhàn)
Nguyễn Hữu Hồng Minh

Trước hết, xin được nói rằng trong suy nghĩ của tôi, Vương Trí Nhàn là một nhà phê bình sáng giá, ít ra nhiều bài viết của ông vẫn còn đọc được trong tình hình văn chương hiện nay. Và vì thế, bài viết này tôi muốn với tư cách là một nhà văn trẻ, xin được đối thoại trao đổi với ông về vai trò của nhà văn, một vấn đề được ông đặt ra cụ thể qua bài trả lời phỏng vấn Với độc giả chúng ta là người có lỗi vừa qua.
Còn nhớ một kỷ niệm khi tôi được gặp hai nhà phê bình trẻ nổi tiếng của Hà Nội là Phạm Xuân Nguyên và Nguyễn Thanh Sơn ở Sài Gòn. Tại quán Hải Triều, tôi có kể với hai anh rằng tôi vừa xem chương trình Ấn tượng VTV1, thấy nhà phê bình Vương Trí Nhàn trả lời độc giả về phê bình văn học. Vương Trí Nhàn đề cao và luôn dùng hai chữ “nhất quán” cho quan điểm viết phê bình “trước sau như một” của mình. Theo tôi, quan điểm đó với hiện thời là cứng nhắc. Không còn phù hợp với dòng chảy văn học (trẻ) đang có nhiều thay đổi như hiện nay. Tôi nhắc lại chuyện này cốt chỉ muốn nói rằng những suy nghĩ tôi muốn trao đổi với nhà phê bình Vương Trí Nhàn hôm nay vốn đã “xâu chuỗi”, hình thành từ rất lâu chứ không phải chỉ mới “phát quang” sau lần đọc bài trả lời phỏng vấn của ông. Vì thế trong bài viết này tôi cũng sẽ dùng một số bài viết trước của Vương Trí Nhàn để đối chiếu và so sánh lại những vấn đề cần phải tranh luận đó.
“Nhất quán” (mà tôi dẫn ở trên) của Vương Trí Nhàn cụ thể nằm ngay ở cái nhan đề “Với độc giả chúng ta là người có lỗi”. Chưa cần đi sâu phân tích, hai chữ “có lỗi” đã cho thấy ngay không khí của sự sám hối, mặc cảm vì hình như chưa (hoặc không?) làm tròn một trách nhiệm nào đấy được giao phó. Nó làm người đọc nhớ đến hương vị của nền văn chương “phải đạo” (2), văn chương phục vụ và tuyên truyền cách đây mấy mươi năm.
Bài trả lời phỏng vấn của Vương Trí Nhàn còn cho thấy những nhược điểm sau:
- Nhà phê bình chỉ theo đuôi ve vuốt nhà văn và ăn theo các sáng tác của nhà văn để được nổi tiếng. Nói chung, cam chịu sống thân phận dây leo hoặc ký sinh.
- Ảo tưởng và chưa phân định rạch ròi giữa hai khái niệm đám đông và công chúng. Từ đây dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong lập luận một bài viết.
- Vương Trí Nhàn như đại diện cuối cùng của lối phê bình “văn dĩ tải đạo” hay văn chương “phải đạo”. Phải chăng cách nhìn nhận, quan niệm văn chương như thế đến hôm nay không còn phù hợp nữa?
Theo quan điểm của tôi, trong nền kinh tế thị trường nhà văn và độc giả nên giữ vai trò bình đẳng. Vương Trí Nhàn viết: “Không rõ những người viết văn khác thế nào, riêng tôi, bao giờ viết tôi cũng thường nghĩ tới độc giả. Bảo rằng tôi rất e sợ họ cũng được. Trước họ, tôi chẳng có một thứ gì gọi là quyền hành. Rất có thể họ cầm trang báo có bài viết của tôi lướt qua rất nhanh và bỏ luôn. Mà như thế thì tủi thân lắm”. Như vậy có thể thấy nguyên nhân ông Nhàn “e sợ”, “thường nghĩ”, “tủi thân” thậm chí bất lực vì mặc cảm “chẳng có một thứ gì gọi là quyền hành” với độc giả chỉ vì sợ không có ai đoái hoài tới mình, sợ độc giả “cầm trang báo có bài viết của tôi lướt qua rất nhanh và bỏ luôn”. Tức là ông Nhàn sợ hãi họ không đọc mình. Ở đây tôi có mấy câu hỏi muốn dành cho ông:
(1) Tại sao vai trò của độc giả lại lấn áp được vai trò nhà văn?
(2) Các bài ông viết là phê bình bác học hay chỉ là những bài báo phất phơ hàng chợ? Ông đang viết với tinh thần một nhà văn hay một nhà báo?
(3) Tại sao ông lại quá cần độc giả phải đọc mà không tính đến việc họ có nhu cầu cần đọc hay không?
(4) Một khi chỉ viết vì nhu cầu của độc giả, liệu nhà văn có được quyền viết chỉ vì nhu cầu của chính mình hay không?
Theo tôi, nếu trả lời được 4 câu hỏi này ông Nhàn sẽ thấy nguyên nhân tại sao chúng ta chỉ có một nền phê bình “ăn xổi ở thì”. Một nền phê bình lẫn lộn với báo chí và sự thật phần lớn những bài phê bình chỉ là những bài điểm sách.
Vai trò của độc giả có cần đề cao một cách quá đáng như thế không? Thú thực, đọc đoạn trả lời trên, tôi có cảm giác ông Nhàn không thật, thậm chí nịnh nọt họ một cách giả tạo và vô lối. Nhưng phân tích kỹ thì thấy ông đang coi thường họ. Ông đang biến đám đông thành một trò múa mép, “đầu môi chót lưỡi” của mình. Bởi đơn giản thế này: Khi trả lời câu hỏi “Anh thích viết cho loại độc giả nào?”, Ông Nhàn trả lời như sau:“Chỗ này phải nhận là tôi hơi tham. Tôi thích viết thế nào đó (Tôi nhấn mạnh) để cho những người khác nhau cũng có thể đọc được”. “Viết thế nào đó” là viết như thế nào? Cho đối tượng độc giả là những ai? Thật khó mà tưởng tượng nổi bút pháp của ông Nhàn khi “viết thế nào đó” lại cộng lẫn, chia đều cho những đối tượng “có thể là những ông giáo sư, tiến sĩ”, là “người đạp xích lô, người bán hàng rong”, là “với thanh niên khó nhất. Họ vội vã sống” (!?). Đã thế, ông Nhàn còn biện giải: “Tôi là cái anh không có bằng cấp gì, nhưng cũng có đi lại chuyện trò với một số người như thế (chỉ các giáo sư tiến sĩ). Và nếu như tôi không lầm, thì họ cũng coi tôi như một đồng nghiệp, chứ không phải mình chơi trèo hay học làm sang đâu”(!?). Ai cũng biết câu trả lời như trên của ông Nhàn chỉ là một lối nói ngoa, nói khéo nhưng không khỏi cám cảnh cho một nền phê bình hợp tác xã, nền phê bình “chia đồng ăn đều”. Nó cho thấy tính giao đãi, thiếu vấn đề, thiếu nghiêm túc, học thuật. Đã thế lại còn là tổng thể của sự thiếu logic. Làm sao có một lối viết phê bình “dĩ hòa vi quí” đến mức từ ông giáo sư, tiến sĩ đến anh đạp xích lô, cô bán hàng rong, cậu thanh niên đều đọc được nếu không phải đó là những bài báo “sành sạch”, “đèm đẹp”, pha màu này màu nọ một chút? Rõ ràng với lối so sánh này Vương Trí Nhàn đã nhầm lẫn giữa hai thể loại Phê bình và Báo chí hoặc thiếu tôn trọng với bạn đọc. Theo tôi, mỗi đối tượng có một nhu cầu văn hóa và một gu thẩm mỹ riêng. Ở đây tôi không phân chia giai cấp nhưng muốn nói rằng nếu với mỗi đối tượng chuyên biệt mà đi đến tận cùng vấn đề đã là việc một khó khăn, một thử thách cho nhà phê bình thì không thể dễ dàng bao đồng như vậy được. Tôi đồng ý với tác giả Hà Quảng (3) rằng trong lập luận này Vương Trí Nhàn quá mâu thuẫn. Từ vai trò ngỡ như chủ động của độc giả mà ông bày tỏ ở lập luận trước, ở ngay phần sau ông đã biến họ thành những người thụ động.
Xin đơn cử một ví dụ cho thấy lối viết “thế nào đó” hay “dĩ hòa vi quí” trên của ông dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận như thế nào. Trong bài viết giới thiệu cuốn sách Điên cuồng như Vệ Tuệ (4), Quạ Đen (5), khi lý giải sự ra đời của lớp nhà văn trẻ Trung Quốc cũng như lối viết của Vệ Tuệ mà Vương Trí Nhàn cho là “bộ mặt tinh thần của những thanh niên mười tám, đôi mươi…”, “lớn lên trong một thời điểm mà sự chuyển mình của xã hội hiện đại đạt tới điểm chín”, Vương Trí Nhàn lấy hai ví dụ điển hình trong lịch sử văn học tiêu biểu của phong cách này là các tác phẩm Faust, Những đau khổ của chàng Werther của J.W.Goethe và Buồn ơi, chào nhé của Françoise Sagan. Vương Trí Nhàn lý giải: “Khác với con người cổ điển vững vàng chắc chắn trong niềm tin cũng như hành động, họ luôn khổ sở vì gần như không hiểu tại sao mình lại thế này mà không như thế khác. Ngay bản thân, họ cũng không làm chủ nổi. Họ có thể lười biếng độc ác mà chẳng có lý do nào rõ rệt. Ngày họ cảm thấy trưởng thành cũng là ngày họ nhận ra cuộc đời vô lý không phương cứu chữa và họ muốn vượt lên sự vô lý để tồn tại”. (6)
Và Vương Trí Nhàn kết luận chắc như đinh đóng cột (tôi nhấn mạnh) về phong cách mới của Vệ Tuệ, nhà văn trẻ Trung Quốc: "Điên cuồng như Vệ Tuệ cũng đi theo cái mạch đã được gợi mở từ Goethe đến Sagan". (7)
Có nhiều mâu thuẫn ở đây: (a) So sánh J.W.Goethe với Françoise Sagan liệu có phải là so sánh hai phong cách của “con người cổ điển” với “con người hiện đại” không?; (b) Như vậy câu văn “Khác với con người cổ điển vững vàng chắc chắn trong niềm tin cũng như hành động” trong ngữ cảnh của đoạn trích dẫn trên nên hiểu như thế nào?; (c) Tại sao phong cách của Vệ Tuệ, một nhà văn trẻ của Trung Quốc lại cứ phải đi theo một mạch từ Goethe và Françoise Sagan?; (d) Vương Trí Nhàn dựa theo thuyết nào hoặc đây chỉ là một nhận xét hết sức cảm tính của ông?; (e) Nhưng rõ ràng đoạn lý giải của Vương Trí Nhàn không phải đã làm người đọc nghĩ nhiều hơn đến chàng Roquentin của Jean-Paul Sartre hay chàng Mersault của Albert Camus của văn học hiện sinh hay sao?
Tôi không hình dung được bài viết trên đây của Vương Trí Nhàn nếu được dịch ngược lại tiếng Trung Quốc thì Vệ Tuệ và các nhà văn trẻ Trung Quốc sẽ nghĩ nhà phê bình chúng ta lập luận kiểu gì và tầm phân tích tác phẩm của họ như thế nào?
Những chồng chéo, suy diễn cảm tính, tùy tiện và bất hợp lý như thế thường dễ dàng xảy ra khi người làm phê bình không tập trung vào hẳn một đối tượng mà họ đã cố nhằm đến khi viết. Để vừa lòng tất cả mọi người thì xén chỗ này một ít, dán chỗ kia một tẹo vậy. Vì thế tôi hoàn toàn không tin rằng một nhà phê bình đích thực có thể làm thỏa mãn được mọi đối tượng nếu như anh không tự lừa dối chính mình.
Trở lại vấn đề nhà văn và độc giả, như tôi đã nói ở trên, ít ra các nhà nghiên cứu chỉ nên đặt mối quan hệ này ở vai trò bình đẳng. Không ai cảm thấy phải có lỗi với ai và cũng không ai phải chịu ơn ai. Như thế dễ thở cho người sáng tạo và đúng với bản chất hiện nay của xã hội hơn. Những tác phẩm đích thực không phải cứ được đánh giá dễ dàng là được chấp nhận ngay trong công chúng. Trường hợp nhà văn Vũ Trọng Phụng ở Việt Nam và Franz Kafka (Czéch) chẳng hạn. Những tìm tòi và thể nghiệm nghệ thuật của các nhà văn (thậm chí là của các nhà phê bình) cần có thời gian và bao giờ cũng đi trước công chúng. Không thể thỏa mãn độc giả một cách tức thì được. Hơn nữa, chìa khóa của thời kinh tế thị trường nằm ở quy luật cung cầu. Đã đành nhà văn sáng tạo ra một tác phẩm bằng tâm huyết, trí não mình. Nhưng hiện nay, anh muốn xuất bản tác phẩm đó phải qua một đầu nậu sách thậm chí phải bỏ tiền túi 5, 10 triệu để in. Và thường chỉ in 500, 1000 bản. Đã qua thời bao cấp. Bây giờ là thời…sòng phẳng. Nhà văn viết. Độc giả bỏ tiền ra mua. Một bên xuất tiền. Một bên xuất…não! Nhà văn làm ra món hàng của mình bằng sự thăng hoa hay kiệt quệ của thân xác. Độc giả làm ra đồng tiền cứ cho là cũng khó khăn như vậy. Vì thế quan hệ giữa nhà văn và độc giả cũng có thể ví như một cái chợ “không mợ thì chợ cũng đông”. Quan trọng hơn, khi đã đi chợ thì người ta chỉ chọn mua những món gì thật cần thiết cho mình. Chẳng ai hơi đâu phí tiền để gánh về những thứ xa lạ với nhu cầu thiết yếu của mình. Như vậy quy luật cung cầu còn chi phối ở chỗ nhà văn có tôn trọng độc giả hay không; nhưng dù vậy, nếu độc giả không thích, không có nhu cầu, thì họ vẫn không mua. Còn độc giả không thích những gì nhà văn viết, nhưng nhà văn có nhu cầu sáng tạo, thích viết, thì vẫn cứ phải viết. Cái nghề văn mà! Nó bạc bẽo và khốn nạn như thế đấy! Vương Trí Nhàn đã lầm lẫm khi đánh đồng văn học là một món hàng hóa nhưng quên rằng nó là một thứ hàng hóa đặc biệt. Thứ hàng hóa của tri thức và tâm hồn. Không thể cân đong đo đếm cụ thể được. Cũng thế, nếu độc giả thấy cần thì sẽ mua báo, mua sách đọc bài của nhà phê bình Vương Trí Nhàn, còn không thì sẽ bỏ qua một bên để thanh thản chọn lựa những tác phẩm của những tác giả khác. Chẳng việc gì phải “tủi thân”, “e sợ”, “tôi chẳng có thứ gì gọi là quyền hành”, “họ cầm trang báo có bài viết tôi lướt qua rất nhanh rồi bỏ luôn”. Lo sợ như ông Nhàn thử hỏi độc giả trí thức, độc giả trẻ chuyên đọc báo điện tử thì sao? Làm sao ông có thể mang tham vọng viết cho đối tượng thanh niên, những người trẻ tuổi với những suy nghĩ già nua, cọc cạch như vậy? Đọc mấy lời thương vay khóc mướn kia, hình như ai cũng cám cảnh cho “thân gái già về chợ”. Vừa tồi tội vừa ngài ngại. Thật đúng là “bỏ thì thương, vương thì tội”.

Một điều rõ ràng: bài trả lời nói trên của nhà phê bình Vương Trí Nhàn rất thiếu tính chuyên nghiệp hay không đề cao tính chuyên môn của Nhà văn. Lập lờ giữa văn học và báo chí, giữa đối tượng độc giả văn chương cao cấp với thị hiếu tầm thường rẻ tiền, giữa trí thức và bình dân. Điều này lại cũng thật mâu thuẫn với một bài viết của ông gần đây là “Nghề nghiệp dang dở” ( 8). Trong bài viết này ông đã trích dẫn câu nói của nhà văn Nga L. Leonov như sau: “Khi nói tới con người, tôi cho rằng nói luôn tới nghề nghiệp là một điều cần thiết. Tổng quát mà nói tôi thích những người yêu tột độ một cái gì đó. Đối với tôi, việc đi sâu vào cách nhìn đời sống của họ thông qua nghề nghiệp mà họ gắn bó, là một chuyện rất thú vị. Nghề nghiệp chính là sợi dây xã hội nối kết con người với thời đại”.

Từ trích dẫn trên, Vương Trí Nhàn đã phân tích: “Mỗi con người chúng ta phải được chuyên môn hóa. Phải có đóng góp cho xã hội trong một công việc cụ thể, và ta phải chăm chút học hỏi để cho cái công việc cụ thể đó trở thành công việc giỏi giang. Trong thực tế, đây lại thường là chỗ yếu nhất của con người trong xã hội ta hôm nay”.
Phải chăng qua bài viết đó, và đối chiếu với những phân tích của tôi ở trên, chính Vương Trí Nhàn đang tự thú nhận công việc của mình hiện nay cũng chỉ là một “nghề nghiệp dang dở”? Hay ở Việt Nam phê bình văn học vẫn đang là một “nghề nghiệp dang dở”?
Sài Gòn, 29/5/2004

© eVăn 2004
_________________________
Chú thích:
(1) Vương Trí Nhàn, Với độc giả, chúng ta là người có lỗi, Văn Nghệ Trẻ, số 16, ngày 18/4/2004
(2) Chữ của Hoàng Ngọc Hiến.
(3) Trao đổi cùng ông Vương Trí Nhàn về chuyện “với độc giả chúng ta là người có lỗi, Hà Quảng, eVăn, 6/5/2004.
(4) Vương Trí Nhàn, Bản tự bạch chân thành của tuổi trẻ, Điên cuồng như Vệ Tuệ - Tập truyện ngắn của Vệ Tuệ - Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2003.
(5) Quạ Đen: Tiểu thuyết của Cửu Đan, Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2003.
(6), (7) Vương Trí Nhàn - Bản tự bạch chân thành của tuổi trẻ.
(8) Nghề nghiệp dang dở - tạp chí Ngày Nay, số 9, 5/2004.

Trao đổi cùng ông Vương Trí Nhàn

Trao đổi cùng ông Vương Trí Nhàn về chuyện ‘Với độc giả, chúng ta là người có lỗi’
Hà Quảng

Xin nói ngay, ông Vương Trí Nhàn là một cây bút phê bình mà chúng tôi yêu mến, vì rất nhiều bài viết vô tư và sắc sảo. Tuy nhiên trong bài trả lời phỏng vấn (có tựa đề: Với độc giả, chúng ta là người có lỗi) của ông gần đây trên báo Văn nghệ Trẻ có vài điều chúng tôi chưa thật thỏa mãn, xin mạnh dạn trao đổi.
Trong lĩnh vực lý luận - phê bình cho đến nay quả đã có sự đổi thay đáng kể. Gạt ra một bên thứ phê bình thiên kiến cực đoan bỏ vật đánh người và ngược lại là thứ phê bình bốc thơm lẫn nhau - cả hai loại này đều thiên về lý giải nội dung xã hội một cách chủ quan mà quên mất giá trị thẩm mỹ, giá trị nghệ thuật khách quan của tác phẩm. Trong thực tiễn, ngành lý luận - phê bình theo thời gian xuất hiện thêm nhiều quan điểm mới. Đó cũng là một điều tất yếu của sự phát triển. Điều chúng tôi muốn trình bày ở đây là sự mâu thuẫn không ít lần xảy ra trong thời gian gần đây về sự đánh giá, phẩm bình các công trình nghệ thuật giữa các nhà chuyên nghiệp và công chúng!
Một tác phẩm được nhiều người đón nhận thường là tác phẩm thỏa mãn được thị hiếu thẩm mỹ của họ. Thị hiếu này không quay lưng lại với tính tư tưởng, tính thẩm mỹ, tính thời sự của tác phẩm, mà ngược lại. Quần chúng bây giờ có những nhu cầu thẩm mỹ mới mà trước đây còn xa lạ hoặc chưa được phép, có những vấn đề người ta quan tâm muốn khám phá mà trước đây chưa có điều kiện để thực hiện. Công chúng muốn được nhìn cuộc sống bằng con mắt đương đại. Nhà phê bình bởi vậy cũng cần một kiểu tư duy phê bình mới để hướng dẫn, nhưng dù mới đến đâu cũng không thể đi ngược lại thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Không thể xem một sản phẩm nghệ thuật được số đông nhân dân ưa thích là tầm thường, là rẻ tiền (!?), trong lúc đó lại cao đạo đề cao những sản phẩm nghệ thuật được ít người đón nhận, thưởng thức.
Trong xu hướng hội nhập quốc tế, chúng ta cần tham khảo là cách đánh giá, cách trao giải của các nước trong một số loại hình nghệ thuật. Họ chú trọng nhiều đến sự đánh giá và thưởng thức của số đông. Sự bán chạy, sự phát hành số lượng cao, sự thu hút người xem... đều là những điều kiện để bình xét giá trị tác phẩm (tuy đó không phải là những giá trị duy nhất). Tất cả đều là những con số thực, tính toán được trên computer chứ không là những sự tổng hợp giả định dựa vào các tiêu chí trừu tượng.
Trong bài phát biểu, ông Vương Trí Nhàn có phân biệt cái gọi là công chúng chọn lọc và công chúng đại trà:
“...Chúng ta đang thiếu cái gọi là công chúng chọn lọc. Lớp công chúng chọn lọc này đóng vai trò dẫn dắt những công chúng khác. Chính họ là người đối thoại với tác giả. Quay trở về với lĩnh vực văn chương thời bao cấp, chúng ta có loại độc giả rất là tốt, chịu đọc chịu suy nghĩ nghiêm túc. Mà nay thì không có, hoặc đúng hơn cũng có, lúc nào cũng vẫn còn, nhưng hình như ngày một ít đi, ngày một lép vế”.[1]
Trước hết ta thấy trong lập luận của mình, Vương Trí Nhàn đã tự mâu thuẫn. Trước đó ông nói: “Tôi thích viết thế nào để cho những người khác nhau cũng có thể đọc được”.Và ông giải thích rõ hơn, “những người khác nhau” đó là từ “những ông giáo sư tiến sĩ” cho đến “những người đạp xích lô, những người bán hàng rong”. Dù là nhà phê bình văn học, nhưng mong muốn của ông như vậy là rất hợp lẽ và rất đáng quí. Nếu như vậy chúng tôi cũng không dám nói gì thêm. Nhưng với sự phân biệt sau đó của ông thì chúng tôi xin được bàn thêm mấy điều.
Đã gọi là công chúng, họ là một khối thống nhất và có chung một lý tưởng đạo đức, một xác tín thẩm mỹ, cho dù trên phương diện cá nhân có ông A mù chữ, ông B đại học, ông C nông dân, bà D công nhân... nhưng khi đã nói “công chúng” là muốn ám chỉ sự tích hợp các đặc điểm của cái số đông làm nền cho mọi giá trị lịch sử đó. Thực ra lúc nào cũng có bạn đọc loại này bạn đọc loại khác, nhưng tách ra thế để cho rằng thời thị trường thiếu đi cái bạn đọc biết suy nghĩ nghiêm túc, bạn đọc rất tốt, theo chúng tôi là hơi vội. Sao các nhà văn không tự trách mình đã chạy theo lối viết xổi của cơ chế thị trường, đã không theo kịp nhu cầu độc giả nên độc giả quay lưng lại, xem thường văn chương! Cũng theo cách lập luận này, nhiều tác giả trẻ bắt chước lối viết “ngô ngọng tây tàu”, viết ra ít người hiểu, lại đổi cho là tại dân trí thấp (đối tượng của họ là những độc giả cao cấp cơ). Còn có những người cho rằng các bộ phim có người đi xem quá đông là vì công chúng thiếu hiểu biết nghệ thuật chạy theo thói ham thanh chuộng lạ, các bộ phim đó rẻ tiền. Họ xem cái gì của số đông cũng là xoàng xĩnh! Thử hỏi các cuốn sách bán rất chạy như Hồi ký của Hillary Clinton, các tập sách của Harry Potter, sách viết cho trẻ em của Madonna...là rẻ tiền, xoàng xĩnh cả chắc?! Cái công chúng đại trà kia, xin thưa, họ đều là những người quan tâm và là những người mua chủ yếu các tập sách của Mạc Ngôn, Giả Bình Ao... cũng như các tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Thị Ngọc Tư... và cả của Vương Trí Nhàn! Chứ bó hẹp sự thưởng thức vào cái công chúng “chọn lọc cao cấp” kia thì được bao người?
Và quả thật nếu có hai loại công chúng như ông nêu lên thì cái đề nghị “có những cuốn sách mang ra cho độc giả bỏ phiếu, cuốn nào được nhiều người thích thì coi như được nhận một thứ giải thưởng, tạm gọi là giải thưởng của bạn đọc” có khả thi? Đề nghị rất hợp lẽ, nhưng theo cách phân chia các loại công chúng trên kia của ông thì biết mời loại công chúng nào đi bỏ phiếu, mà nếu bỏ phiếu đại trà như vậy thì loại công chúng chọn lọc của ông chắc bao giờ cũng là số ít, cũng thất bại?
Nói tóm lại, việc đề cao sự bình giá nghệ thuật của công chúng là đúng đắn, không nên để bênh vực cho một loại tác phẩm nào mà lại tách ra các đẳng cấp độc giả và lại càng không nên bi quan về công chúng thời nay. Các tác giả cứ viết thật hay vào, công chúng sẽ nâng như nâng trứng hứng như hứng hoa ngay. Cố nhiên các fan nghệ thuật tồn tại là hợp lý, vì đó là cái gu thẩm mỹ cũng như cái sự thích món ăn của từng loại người, chứ tuyệt nhiên không dựa vào đó mà xét giá trị cao thấp của nghệ thuật.
Công chúng bây giờ thích tiếp cận với những tác phẩm nghệ thuật có tư duy mới, đó là những cuốn sách, bộ phim, vở kịch, bài hát, bức tranh… đề cập đến những vấn đề họ quan tâm nhưng chưa nhận thức hết. Chỉ có nâng cao chất lượng sản phẩm, mới mong tồn tại. Quy luật quan trọng nhất của thị trường, là quy luật giá trị. Chúng ta không chủ trương thương mại hóa nghệ thuật, tuy nhiên để tồn tại một cách hữu hiệu, không thể phủ nhận yếu tố thương mại của nó (số đông người xem, số đông người thích, số đông người mua). Vì suy cho cùng, tác phẩm nghệ thuật dẫu là món ăn tinh thần bậc cao chăng nữa thì cũng chỉ là một sản phẩm hàng hóa, lao động nhà văn cũng là một thứ lao động như bao nhiêu lao động khác trong xã hội.Chúng ta không nên tự huyễn hoặc với những đối tượng “cao cấp” nào khác ngoài những công chúng đi bên cạnh ta hàng ngày. Cuộc “trưng cầu dân ý” về 3 mẫu tượng đài Chiến sĩ quyết tử của Sở VH-TT Hà Nội đã hé mở cho chúng ta nhiều điều lý thú về năng lực thẩm mỹ của công chúng. Ba mẫu tượng đài lọt vào vòng cuối được trưng bày tại 45 Tràng tiền, người xem khen thì ít chê thì nhiều, thậm chí có những ý kiến phủ định hoàn toàn [2], mà những ý kiến này rất vô tư và không phải không có cơ sở khi thẩm bình. Nghĩ sao đây về những nhận xét đánh giá của Hội đồng nghệ thuật về các công trình này, và giả sử nếu không thăm dò dư luận mà cứ thế cho xây? Đã có nhiều bức tượng danh nhân văn hóa ở các địa phương,vì quá tin vào tài năng của các tác giả trung ương và sự đánh giá của các Hội đồng nghệ thuật, khi công trình hoàn thành thì công chúng nản lòng vì các bức tượng nếu không vô cảm thì cũng chỉ là những học quan tráng kiện hãnh tiến chứ không còn là những con người lo đời và thương dân như người ta vẫn tưởng.
Gần đây tạp chí Truyền hình có trao tặng giải thưởng cho hai bộ phim Phía sau một cái chết và Khi đàn chim trở về dựa trên sự bình chọn của người xem. Đây là một việc làm thức thời, để định hướng cho sự tìm tòi nghệ thuật của các biên kịch và đạo diễn cũng như sự đánh giá các bộ phim sắp tới. Giải Oscar - một giải thưởng nổi tiếng của điện ảnh thế giới, cũng chủ yếu dựa vào sự bình xét của các nhà chuyên nghiệp lẫn công chúng.
Ý thứ hai của Vương Trí Nhàn: “Bây giờ báo nhiều nên mấy ông ham nói, nói nhiều, nói dai, nói dài tha hồ múa may. Thực ra trong ý nghĩa sâu sắc của nó, văn học đòi hỏi chúng ta phải làm ra những thứ tinh luyện hơn, kỹ lưỡng hơn”.[3]
Điều này quá đúng khi nói về cái văn hóa phê bình,văn hóa tranh luận của chúng ta hiện nay. Tuy nhiên chúng tôi vẫn thấy ông nương nhẹ, không phải chỉ ham nói, nói nhiều, nói dai, nói dài mà còn nói thiếu văn hóa.
Phê bình văn chương, nghệ thuật thời nào cũng cần một ánh lửa làm nền để soi rọi. Các bài phê bình của các cây bút lớn được coi trọng là vì họ đấu tranh cho một chủ thuyết, một lý tưởng nghệ thuật nào đó, chứ họ không chỉ nhằm vào từng con chữ, từng hình ảnh, chi tiết vụn vặt,những tiểu xảo kỹ thuật. Nói như Chế Lan Viên, họ chú ý đến đường bay con chim hơn lông, cánh.
Vừa rồi tuần báo Văn nghệ đăng lại bài tranh luận của Trần Trọng Kim với Phan Khôi, chúng ta thấy so với các cụ thì cái văn hoá phê bình của ta kém xa. Các cụ đạt nhã mà ta thì lố bịch quá! Phê nhau nhưng vẫn trọng nhau, ấy thế mới cao nhã. Tính chiến đấu cao của một cây bút phê bình chủ yếu là ở chủ thuyết chứ không phải ở cách nói, lại càng không phải ở sự ngoa ngôn. Truyền thống này trong nền văn học VN không phải không có. Chỉ nói thời hiện đại với các bài bút chiến của Hải Triều với Hoài Thanh về nghệ thuật, các bài tranh luận của Xuân Diệu với Chế Lan Viên về thơ, Nguyễn Đình Thi với Nguyên Ngọc về công cuộc đổi mới văn học... Đọc lại ta vẫn thấy khoáng đạt mà không thô lỗ, uyên bác mà không kiểu cách...
“...Chúng ta phải làm ra những thứ tinh luyện hơn, kỹ lưỡng hơn”.[4] Chúng tôi hiểu sự tinh luyện, sự kỹ lưỡng này bao gồm ý nghĩa: Nền nghệ thuật của ta, cho dù đổi mới, nâng cao, hội nhập đến đâu, thì cũng đừng quên lời dạy của tiền nhân: Nghệ thuật cần có ích! Đừng bao giờ đánh mất bản sắc dân tộc. Có thể nhận xét một cách không chủ quan: Trong nền thơ Việt Nam, trong số những câu thơ hay nhất, những bài thơ hay nhất, tỷ lệ thơ lục bát chiếm một phần không nhỏ và nhà thơ lớn nào cũng có những bài thơ đỉnh là...lục bát! Tranh Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh…; nhạc Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Đỗ Nhuận, Trần Hoàn…; tất cả đều toát lên bản sắc tâm hồn Việt. Rồi rối nước, tranh Đông Hồ, nhã nhạc Huế cứ còn mãi với thời gian… Điều đó nói lên rằng: cái nghệ thuật nhất, cái đẹp nhất là cái tiếp nối nguồn mạch đất nước, dân tộc, thể hiện thụ cảm thẩm mỹ quần chúng…
Khen chê đúng mức, định hướng cho dư luận, cần tham bác tâm lý và thị hiếu quần chúng, cố nhiên không theo đuôi mà phải đứng cao hơn. Người viết phê bình bây giờ cũng dễ mà cũng khó là vì vậy. Có những tác phẩm khẳng định được giá trị theo thời gian, nhưng cũng có tác phẩm bị người đời quên lãng. Chính thị hiếu thẩm mỹ của công chúng, góp phần quyết định số phận và giá trị của mỗi tác phẩm nghệ thuật trong đời sống xã hội.
Hà Tĩnh, 4/2004


(c) eVăn 2004
________________________________________
Chú thích:

[1] Vương Trí Nhàn. Với độc giả, chúng ta là người có lỗi - Văn nghệ Trẻ, số 16, ngày 18/4/2004
[2] Báo Đại đoàn kết, ngày 14/3/2004
[3] Vương Trí Nhàn. Với độc giả, chúng ta là người có lỗi - Văn nghệ Trẻ, số 16, ngày 18/4/2004
[4] NT

'Với độc giả chúng ta là người có lỗi'


- Thưa anh Vương Trí Nhàn, chuyên mục
Hỏi chuyện văn chương của Văn nghệ Trẻ xin được phỏng vấn anh - một nhà phê bình văn học, lại gắn bó lâu năm với công việc xuất bản - về mối quan hệ giữa văn chương và độc giả hiện nay. Trước tiên xin anh cho biết độc giả giữ vai trò như thế nào trong suy nghĩ hàng ngày của anh về nghề nghiệp?

- Không rõ những người viết văn khác thế nào, riêng tôi, bao giờ viết tôi cũng thường nghĩ đến độc giả. Bảo rằng tôi rất e sợ họ nữa cũng được. Trước họ, tôi chẳng có một thứ gì gọi là quyền hành. Rất có thể họ chỉ cầm trang báo có bài viết của tôi lên rồi lướt qua rất nhanh và bỏ luôn. Mà như thế thì tủi thân lắm. Vậy phải viết làm sao để họ có nhu cầu đọc mình. Chẳng những thế, lại còn có thể tìm ở họ những tác động ngược để giúp mình viết tốt hơn.

- Thường thì anh thích viết cho loại độc giả nào?

- Chỗ này phải nhận là tôi hơi tham. Tôi thích viết thế nào đó để cho những người khác nhau cũng có thể đọc được. Có thể đó là những ông giáo sư, tiến sĩ tôi quen biết (tôi là cái anh không có bằng cấp gì, nhưng cũng có đi lại chuyện trò với một số người như thế, và nếu tôi không lầm, thì họ cũng coi tôi như một đồng nghiệp, chứ không phải mình chơi trèo hay học làm sang đâu!). Mà cũng có thể đó là những người làm đủ các loại nghề khác, không có quan hệ trực tiếp tới văn học. Không loại trừ trong số này có cả người đạp xích lô, người bán hàng rong. Chinh phục được loại thứ hai này cũng thú vị lắm. Ngay từ những năm 1968-1970, nhà văn Nguyễn Khải có lần nói với tôi rằng nói chuyện với thanh niên là khó nhất. Họ vội vã sống. Họ không có thì giờ để nghe những chuyện cà kê dài dòng và khi không thích là họ bỏ đi liền. Cho nên nói chuyện thế nào để thanh niên nó nghe được mới thấy sướng. Viết cũng tương tự như vậy.

- Anh có thể giải thích cụ thể về cách mà bạn đọc tác động tới anh?

- Mong có nhiều người đọc, nhưng lúc viết tôi thường hình dung như bên cạnh mình có một độc giả rất là khó tính, rất là uyên bác, mà cũng rất là thạo đời... để lấy đà phấn đấu. Người độc giả lý tưởng này biết tất cả. Họ biết chỗ này tôi nói dối, chỗ kia tôi không đọc mà cứ nói liều, chỗ khác nữa thì suy nghĩ không kỹ, chẳng qua cũng chỉ là diễn lại vài ý người đời ai cũng biết. Tôi thường đặt ra một loại độc giả rất cao như vậy rồi xác định viết để đối thoại với họ. Khi nghĩ được rằng vẫn còn một người nào đấy tin mình, chờ mình, phải viết sao để đáp ứng lại sự chờ đợi của người đó, tự nhiên người ta có cớ để cố và bớt viết những cái lăng nhăng đi.

- Nhận xét của anh về độc giả hôm nay?

- Đạo diễn sân khấu Nguyễn Đình Nghi có lần bảo tôi: cái căn bản của sân khấu ngày trước là rất nghiêm túc, còn bây giờ lắm khi vào rạp người ta cắn hạt dưa, rồi cười nói rúc rích thì còn ra sao nữa. Chúng ta đang thiếu cái gọi là “công chúng chọn lọc”. Lớp “công chúng chọn lọc” này đóng vai trò dẫn dắt những công chúng khác. Chính họ là cái người đối thoại với tác giả. Quay trở về với lĩnh vực văn chương, thời bao cấp, chúng ta có một loại độc giả rất là tốt, chịu đọc, chịu nghĩ nghiêm túc. Mà nay thì không có, hoặc đúng hơn cũng có, lúc nào cũng vẫn còn, nhưng hình như ngày một ít đi, ngày một lép vế.

- Tức là, như người ta hay nói, văn hóa đọc ngày nay giảm sút?

- Hồi trước số đầu sách thì ít nhưng số lượng in của từng cuốn lớn lắm. Người ta săn sách kinh khủng. Chúng tôi cũng vậy, mỗi lần đi công tác các tỉnh, thế nào cũng sục vào các hiệu sách xem có cuốn nào hay còn sót thì mua. Lúc nào cũng trong tình trạng đói sách. Còn gần đây, độc giả có tình trạng ngược lại: quá no. Một số trở nên dễ tính, yêu cầu của họ cũng thấp. Ngày trước, văn học mang đậm tính chất giáo dục, nó thiêng liêng quá, mà lại thiếu sự thông cảm với những yêu cầu bình thường của con người, thiếu chất giải trí. Nhưng mà bây giờ thì lại hơi nhiều chất giải trí quá. Có nhiều cuốn sách, không ít kêu là dở nhưng lại bán chạy, nhìn kỹ thì thấy chẳng qua ở đó, tác giả đóng vai trò mua vui khi trêu chọc khi nịnh nọt độc giả. Nhìn chung nay là lúc trong độc giả đang có sự phân hóa. Có lẽ chúng ta cần một cuộc khảo sát.

- Theo anh, đã xuất hiện những độc giả mới, có cách ứng xử với sách văn chương không theo “chuẩn mực” như trước đây và anh không hẳn tin ở cách đánh giá của họ?

- Đúng vậy. Hiện có những cây bút tự hào là rất ăn khách, rồi vin vào cớ đó đi rêu rao rằng tác phẩm của mình toàn là văn chương thứ thiệt, là những giá trị lâu dài. Tôi không có cách gì để cãi lại họ, chỉ biết rằng tôi tin ở một loại độc giả khác, phấn đấu cho một loại độc giả khác.

- Đâu là nguyên nhân của sự phân hóa độc giả như anh vừa nói?

- Tại sao loại độc giả lý tưởng của văn học lại đang ít đi, hay đang bị ít đi; mà loại độc giả đùa bỡn, đối xử với sách như một trò mua vui vớ va vớ vẩn thì lại có vẻ ngày càng nhiều hơn? Theo tôi thì có hai lý do thế này: Một là sau một thời gian lý tưởng hóa văn chương, coi tác phẩm văn chương như thần như thánh, một số độc giả thấy chán. Chán sách, họ chán luôn cả văn học. Hai là lớp trẻ bây giờ họ ra đời trong điều kiện tivi đầy ra, các phương tiện thông tin đầy ra. Bóng đá và đủ các thứ khác nó lôi cuốn họ. Cái họ cần, không thấy có trong sách.

- Thưa anh, phải chăng đó chỉ là kết luận khi chúng ta nhìn nhận từ thực tế ở chốn thị thành? Còn độc giả đông đảo ở nông thôn, vùng sâu vùng xa? Họ có được vậy không và có đến thế không?

- Chính vì không rõ là ở những vùng ấy độc giả hiện nay đọc sách ra sao, nên tôi mới đề nghị phải có những cuộc điều tra, thậm chí điều tra thường xuyên. Tuy nhiên tôi ngờ rằng ở đó quá trình phân hóa này cũng đang xảy ra.

- Đứng trước thực trạng như vậy, chúng ta có thể nói gì về trách nhiệm của những người viết văn?

- Phải nhận chính chúng ta là người có lỗi. Văn chương góp phần tạo ra độc giả, rồi độc giả lại góp phần vào định hướng văn chương, hai bên góp phần sinh thành, đào tạo ra nhau. Nói thế để tự nhận lấy phần trách nhiệm của ta. Cụ thể là, theo tôi, mỗi người viết văn cần đặt cho mình yêu cầu cao tự nâng mình lên. Giống như đi tu ấy. Phấn đấu hằng ngày. Bây giờ có nhiều bạn viết mang tâm lý thế này: cái gì mình viết ra thì phải có người khen ngay hay chê ngay. Tại sao không nghĩ rằng: vài năm sau người ta mới hiểu mình? Xưa, các cụ có câu: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân”. Chính cái sự tự trọng ấy của người viết sẽ có tác động tích cực đối với sự đọc văn chương của độc giả.

- Và sự nghiêm túc, nghiêm khắc của nghề văn không chỉ được thể hiện qua các tác phẩm như thơ, trường ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, v.v... mà còn được thể hiện trong cả những bài viết nhỏ in trên báo và ngay cả trong những ý kiến nhà văn phát biểu miệng nơi này, nơi khác?

- Vâng, đúng là như thế. Bây giờ báo nhiều nên mấy ông ham nói, nói nhiều, nói dai, nói dài tha hồ múa may. Thực ra, trong ý nghĩa sâu sắc của nó, văn học đòi hỏi chúng ta phải làm ra những thứ tinh luyện hơn, kỹ lưỡng hơn. Cũng như trong đời sống, nhiều người chúng ta đang mắc bệnh nói nhiều trong khi con người hiện đại cần thanh cao hơn, hợp lý hơn, từ tốn hơn. Một điểm nữa tôi xin nói tạt ngang, nay là lúc chúng ta sẵn sàng khề khà trò chuyện với nhau mà lại ít đọc nhau. Lẽ ra nếu còn lương tâm nghề nghiệp, thì nên dành thì giờ mà đọc nhau, mà tập trung cho việc sáng tác. Tôi đã nghe có người chê rằng như thế là già, là cổ lỗ lắm rồi. Nhưng cái tạng của tôi là thế, với văn chương không bao giờ tôi dám coi là chuyện đùa bỡn, với những gì thuộc về tương lai lại càng không thể đùa bỡn.

- Quay trở lại với vấn đề độc giả, theo anh thì làm thế nào để có thể “tổ chức độc giả” cho nền văn học của chúng ta?

- Trước mắt phải lo sao có những tác phẩm tương đối có giá trị thì mới có sức lôi cuốn bạn đọc. Tuy nhiên, khi đã có sách, lại cũng cần có những sáng kiến cụ thể. Tôi nghĩ báo chí nên dành thêm chỗ cho độc giả phát biểu. Các tờ báo, các nhà xuất bản có thể nghĩ ra các hình thức giao lưu khác nhau, ví dụ có thêm các buổi gặp mặt tiếp xúc với bạn đọc. Hoặc có những cuốn sách mang ra cho bạn đọc bỏ phiếu, cuốn nào được nhiều người thích thì coi như được nhận một thứ giải thưởng, tạm gọi là giải của bạn đọc. Có giải của bạn đọc thanh thiếu niên, giải của bạn đọc lớn tuổi v.v... Nói cho to tát tức là cần có cách để khôi phục cảm giác thiêng liêng của văn học trong lòng bạn đọc.

Nói thì dễ nhưng làm thì khó lắm. Năm ngoái năm kia, nhà xuất bản nơi tôi công tác có in một cuốn sách của một nhà văn nổi tiếng, tôi mới nói hay là bây giờ ta họp mặt bạn đọc để tác giả giới thiệu sách rồi ai thích thì xin chữ ký của tác giả. Nhưng Giám đốc nhà xuất bản bác đi ngay: nhỡ tổ chức ra mà quá ít người đến thì sao? Nhỡ người ta có đến mà người ta không mua sách thì sao? Ai dám tự nhận là nắm chắc được độc giả bây giờ?! Thế là lại thôi. Tuy vậy với tư cách là một người làm xuất bản và một người có viết sách, tôi vẫn tin ở những độc giả lý tưởng của mình và cố làm việc, cố viết để khỏi phụ lòng những độc giả đó.

- Xin cảm ơn anh!

P.V. thực hiện

Văn nghệ Trẻ, số 16, 18/4/2004

SỐ TRUY CẬP