SỰ LANG CHẠ CỦA PHÊ BÌNH

SỰ LANG CHẠ CỦA PHÊ BÌNH

Trong cuốn “những kiếp hoa dại”của vương Trí nhàn ,được gọi là,”Tập chân dung và phiến luận văn học”,do N.X.B Hội nhà văn ấn hành 1993 ,trang 110,trong tiểu mục với một cái tên kinh hãi :”CHẤT LANG CHẠ TRONG MỖI CHÚNG TA”,khi cố ý dồn cả nền văn học Việt nam hiện đại vào ngôi nhà của Lang chạ ,tác giả viết :”Là lang chạ vô nguyên tắc ,những cây bút phê bình không cần biết hay dở hợp gu hay không hợp gu,viết bạt mạng ,viết lấy được suồng sã xô bồ trong thẩm định và đánh giá…” Như chúng ta đã biết,hai từ lang chạ chỉ sự chung đụng trai gái cô nguyên tắc ,bậy bạ , hủ hóa ,hoặc dùng chỉ gái thanh lâu ,đàng điếm .Chúng tôi rất lấy àm sửng sốt,bởi một người xưa nay có tiếng là lịch lãm như nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn ,không hiểu vì lý do gì ,núp dưới chiêu bài phiến luận ,đột ngột đàng điếm hóa nền văn học của chúng ta ,bằng cách xô tất cả văn giới vào chốn” lang chạ”!” Không biết “Chất lang chạ trong mỗi chúng ta” có bao gồm chính tác giả không , nhưng khi ông chụp mũ lang chạ lên đầu giới sang tác và phê bình ,thì có vẻ ông trừ mình ra . Nghĩa là tất cả lang chạ ,trừ vương Trí Nhàn(!)

KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN XỈ NHỤC ĐỒNG NGHIỆP MỘT CÁCH KHIẾM NHÃ NHƯ THẾ

Xin hãy nghe nhà phê bình văn học họ Vương nhìn đồng nghiệp ,người viết văn vốn được coi là làm một nghề cao quý:”Rồi có một lần ai đó buột miệng bảo anh là điếm .Không đánh đu với lão X đó được người ta bảo vậy .Lão ấy điếm lắm ,đi với ai cũng thế ,chỉ cốt moi tài liệu mà thôi “(tr.109) .Một nhà văn xởi lởi ,gặp ai cũng chơi được ,cũng vỗ vai được “chỉ cốt moi tài liệu” để viết như trên ,sao ông Vương Trí Nhàn lại nỡ chửi người ta điếm? gặp ai cũng chỉ cốt moi tài liệu mà thôi là bệnh nghề nghiệp của nhà văn ,âu đó là ý thức tốt về nghề chứ ,sao ông Nhàn lại nỡ mạt sát người ta như vậy ?Xin hãy nghe ông Nhàn cắt nghĩa căn bệnh “điếm bút” mà ông chụp lên đầu đồng nghiệp :”Có người suốt đời không biết đến người đàn bà nào khác ngoài vợ ,nói đến chuyện chơi bời thì ngớ mặt ra ,muốn bảo vệ nhân phẩm chị em một cách nhiệt huyết ,một cách chân thành…song nhiều người trong họ lại cư sử theo đúng tinh thần của nghề mà họ khinh bỉ .Trong sự giao tiếp hàng ngày nhiều khi vì lịch sự mà chúng ta phải xếp cái cá nhân chính đáng của mình lại ,để chiều chuộng tất cả những người mà ta có quan hệ .Bảo thế là điếm e còn oan .Nhưng cứ đà ấy mà kéo ,nhân danh sự kiếm sống ta tự cho phép làm tất cả những việc ta vốn không thích ,miễn là làm vừa lòng khách hang của mình;việc vốn thiêng liêng đáng ra phải mang tất cả tình cảm và hứng thú ra để làm lại được tiến hành một cách máy móc ,theo nguyên tắc của chiếc tăc-xi ,khách nào cũng chở ,có tiền là chở ,tiền chao cháo múc …thì đúng là lang chạ vô nguyên tắc rồi còn gì …Là lang chạ vô nguyên tắc ,những cây bút nào nhận viết về mọi đề tài không phân biệt quen hay lạ ,sở trường hay sở đoản ,cứ có người đặt tiền vào tay là viết…”.Trời ơi ,trong thời buổi kinh tế thị trường ,khi chính ông Vương Trí Nhàn nổi tiếng về việc “chạy chợ bằng ngòi bút ,cút kít hàng xén lặt vặt bằng ngòi bút “ ,viết theo đơn đặt hàng đủ các báo khắp trong Nam ngoài Bắc ,viết đủ mọi chuyện thượng vàng hạ cám cốt để kiếm sống ,mà cớ sao ông dám cao ngạo rủa sả đồng nghiệp viết văn viết báo để kiếm tiền là “điếm bút” ?Thưa với ông Nhàn là một số kiệt tác của Balzac,của Dostoievsky viết ra để trả nợ ,để cốt kiếm tiền ,viết trong tiếng đập cửa như búa bổ của chủ xuất bản đến đòi nợ đấy ! Viết theo đơn đặt hàng ,viết để kiếm sống ,viết như một cái nghề nuôi thân ,là việc làm chân chính ,lẽ nào lại có thể trở thành điếm bút được chứ ? Hiện nay ,ở phương tây ,các nhà văn lớn ăn khách như Marquez chẳng hạn ,đều viết theo đơn đặt hàng (commande) cả .Nhưng lạ thay ,ông Vương Trí Nhàn ,một người từng hô hào hiện đại hóa văn chương Việt Nam theo khuôn mẫu phương Tây ,lại không chấp nhận được kiểu nhà văn viết theo đơn đặt hàng .Đến nỗi ở trang 180 ,sách đã dẫn ,ông coi nhà văn viết theo đơn đặt hàng là :”Giao kèo với quỷ sứ đã ký rồi “ .Theo ông Nhàn ,văn chương là thiêng liêng ,là sang trọng ,viết vì nhuận bút là lang chạ ,ký với nhà xuất bản một giao kèo là :”Giao kèo với quỷ sứ”,mặc dù ông làm ở nhà xuất bản hàng chục năm nay (!) Có lẽ ,trong lịch sử văn học nước nhà ,cũng như trong lịch sử văn học thế giới ,chưa có một nhà phê bình văn học nào như ông Vương Trí Nhàn đã hạ cấp hóa nghề văn ,liều mạng gọi đồng nghiệp của mình tất thẩy đều là “lang chạ” , là “điếm bút”?

MỘT MÌNH XÓA SỔ CẢ NỀN VĂN HỌC

Với quan niệm sai trái ,nhục mạ cả nền văn học Việt Nam là lang chạ ,Vương Trí Nhàn tự cho phép mình đứng trên tất cả ,bất chấp sự thật ,chân lý ,vứt bỏ mọi giới hạn của văn hóa và lương tri ,làm cuộc xóa sổ nền văn học mà trước đây ông hết lời ca ngợi trong hàng chục bài viết .Chàng Don quichotte họ Vương cưỡi trên con nghẽo Rossinanté có tên là “Lang Chạ” ,tay cầm ngọn giáo “phiếm luận”, mình mặc áo giáp “chân dung” xông thẳng vào tiêu diệt “Những kiếp hoa dại” mà ông có nhã ý đặt tên cho cả nền văn học .Tất nhiên , khi một người một ngựa trong cái thế giới lang chạ ấy ,chàng hiệp sĩ phê bình tự tung tự tác ,muốn nói gì là tùy chàng , bất cần tiêu chuẩn chân lý . Và ông Vương trí Nhàn ,một nhà lang chạ học ,đã vui sướng tiêu diệt nền văn học đương đại Việt Nam bằng những nhận xét quá ư càn quấy :”Sáng tác của chúng ta vừa thấp về trình độ tư tưởng ,vừa yếu kém ,cổ lỗ về trình độ nghệ thuật” (tr. 181) Chúng ta không có được những ngòi bút có văn hay ,những giọng văn thật độc đáo .Ngược lại giờ đây , giở nhiều trang sách dễ có cảm tưởng như nhìn vào mẹt gạo mới đong ,trấu sạn còn đầy ,và điều đáng tiếc là cỏ dại ăn lẫn vào cả mảnh đất chuyên canh của những ngòi bút một thời được coi là kỹ tính…Người này dùng chữ cẩu thả ,người kia câu cú vặn vẹo lung tung ,mẹo luật tối thiểu cũng vi phạm… Qủa thật ,tiếng Việt đang bị dầy vò mà ở thế kỷ này , nó không đáng phải hứng chịu “ (tr .182).Trước và sau năm 1975 , bẩy tám năm gì đó ,Vương Trí Nhàn đã có hàng chục bài viết ca ngợi nội dung tư tưởng và nghệ thuật của nền văn học Cách Mạng với không chỉ các nhà văn tiền chiến tham gia kháng chiến , mà ông còn có nhiều bài ca ngợi các tác giả như Nguyễn Đình Thi ,Trần Đăng , Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu ,Đỗ Chu , Phạm tiến Duật , Bằng Việt , Xuân Quỳnh , Lưu Quang Vũ…Nay,đột nhiên thấy ông nói ngược lại , xưa ông khen bao nhiêu thì giờ ông chê bấy nhiêu , chê lấy được chê như kiểu ăn chả bữa . Có lẽ ,ông Vương Trí Nhàn quan niệm như thế mới là “đổi mới” ,nghĩa là xưa nói trắng thì giờ ,cùng một sự vật ấy ,ông lại bảo nó vốn đen kịt hơn hũ nút(!) Ông báo động “Tiếng Việt đang bị dầy vò “ ,rằng nền văn học chúng ta đang hành hạ Tiếng Việt , tức nhiên là trừ ông ra .Ông tiếp tục làm tiên chỉ , phán :”Cái nền chung của chúng ta quá yếu ; sự lạc hậu của sáng tác văn học , với ý nghĩa một ngành sản xuất tinh thần”(tr.179) . “Lại cũng rất đáng báo động là trình độ nghề nghiệp của chúng ta ngày nay rất thấp “ (tr.143) . “Kỹ thuật viết của chúng ta hiện nay , đặc biệt là văn xuôi rất cổ lỗ” (tr.143). “Công tác nghiên cứu văn học cổ quá chậm trễ ,không mang lại hiệu quả thiết thực “ (tr.184) “Cách sống ,cách làm việc của từng người cũng như cách hoạt động toàn nghành (tức trình độ sản xuất) còn ở tình trạng lạc hậu “ (tr.185) . Vương Trí Nhàn quan niệm văn chương là một nghành sản xuất , một công nghệ như nuôi gà công nghiệp , như đan len xuất khẩu . Rằng chúng ta mới chỉ biết làm hàng văn học nội địa , chưa biết làm xuất khẩu văn chương (!) Vương Trí Nhàn đứng trên văn giới ,tiếp tục phán , ngầm bảo bọn viết văn đều thất học :”Thiếu lý tưởng nghề nghiệp ,thiếu cốt cách trí thức” (tr.148) Ông cao ngạo xoa đầu giới sáng tác , chê người viết văn không chịu học hành như ông :”Sự học hành tu luyện ,suy nghĩ thêm ,lo cho một câu ,lo cho một chữ thì ngày càng ngần ngại” (tr.180). Trong giao tế cũng như trong văn học , hẳn ông Vương biết rằng , cái phương cách muốn giữ được sự có văn hóa , có học thức của mình là đừng bao giờ được quyền mắng người khác vô học , hoặc thiếu “cốt cách tri thức” như ông vừa phán ra

Mối quan hệ giữa sang tác và phê bình của nền văn học đương đại được ông Vương trí Nhàn lang chạ hóa thành trò hề điếm đàng như sau: “Và đây là điều xẩy ra trong mối quan hệ tuyệt vời này :một mặt khinh phê bình như vậy ,nhưng mặt khác ,nhiều người lại lợi dụng phê bình . Họ hiểu,nếu trì trệ kéo dài thì chính những người phê bình kia lại đưa họ lên đài danh vọng và ở lại với lịch sử . Thật là mối quan hệ đáng ghê sợ” (tr.177) Thảo nào , một số người đã đùn đẩy ông Vương Trí Nhàn lên thành ngọn cờ “đổi mới văn học” . Đổi mới theo ông Vương là tha hồ được quyền xóa sổ nhân cách người sáng tác , bằng cách hắt toàn bộ tro trấu của quá trình “rửa quá khứ” của ông lên mặt đồng nghiệp , lên mặt bạn bè mà một thời ông từng tô son vẽ phấn . Chúng tôi kinh sợ về khả năng “đấu tố” đã bắt đầu lộ diện nơi ông Vương , khi ông “vạch mặt”đồng nghiệp :”Loại thứ nhất nói một đằng,nghĩ một nẻo mà không tự biết”. “Nếu sự phân thân ở loại người nói trên là ngây thơ ,vô ý thức ,thì ở loại người thứ hai là cố tình ,hoàn toàn có ý thức”(tr.168) “Một số khác láu cá hơn mà cũng là loại thực dụng hơn ,cứ nói theo thời thượng ,chỉ cốt dư luận khen và những người có chức quyền khen ,lấy sự khen tụng đó để dọa người ,coi là mình đã làm lợi cho cách mạng” (tr.169).Quả là lần đầu tiên,văn chương nhà nước thông qua những trang viết “phê bình”của Vương Trí Nhàn ,đã xuất hiện đầy đủ giọng điệu Chí Phèo khi gã chửi Bá Kiến , nghĩa là những ngôn ngữ đầu đường xó chợ như lang chạ, điếm đàng , láu cá , xỉ vả , khốn nạn…được phiếm luận hóa , để trở thành ngày hội cho thô lỗ và dung tục khoác y phục văn học . Hãy nghe ông Vương xỉ vả giới văn học , y như ông vừa mất con gà phê bình vậy:”Ở mỗi người, cái lì lợm ,hơn nữa , cái láu cá bám vào nghề , cái đó có thừa “ (tr.112) .chính vì ý thưc xã hội “quan niệm tước đi cốt cách trí thức nhà văn “(tr.146) do ông Vương áp đặt ,để tiêp tục xóa sổ nền văn học bằng cách rủa nó là xẩm chợ:” Đó là loại nhà văn giống như xẩm chợ , thiên về nói leo , phát biểu một thứ phản xạ tức thời và nông nổi trước đời sống hơn là chiêm nghiệm , suy nghĩ…” (tr147)

Xóa sổ nền văn học , dĩ nhiên , Vương Trí Nhàn phải xóa sổ chính văn học bằng cách sổ toẹt những thành tựu của nó , đồng thời ông còn tìm đủ mọi cách để xóa sổ cá nhân nhà văn , xỉ vả , bôi nhọ đời tư nhà văn , những người ngày xưa ông từng hết lời ca ngợi . Bới móc ,thêu dệt , xuyên tạc , xúc xiểm đời tư đồng nghiệp , của bạn bè trong giới có lẽ là sở trường vô song của Vương Trí Nhàn . Hãy nghe ông “phê bình “đồng nghiệp một cách có vẻ lọc lõi và thị thành , ngôi lê đôi mách như sau ;”Hãy kể về trường hợp anh nhà văn nọ ,mà giờ đây , cả giới chúng tôi đều gớm ! ngay từ lúc mới vào nghề ,con người khôn ranh tinh qoái đó đã học được toan những đức tính sang trọng của các bậc đàn anh .Thấy ai có gì hay hay cũng muốn phỗng tay trên .Bạ ai cũng sai . Sai đèo đi nơi này ,nơi nọ ,sai đi kiếm`cho tao mấy cái vé . Sai ra ngoài kia kiếm bia , kiếm lạc để chúng anh khề khà .Thậm chí , vào nhà người ta chơi , ngả ngốn ra đấy , sai cả bố mẹ , vợ con người ta điếu đóm hầu hạ mình luôn thể . Ấy là không kể một phương diện khác của sự hách , là cái tật hay nói , hay dậy khôn , bạ cái gì cũng dúng mồm vào , đến nhiều đám đông , chưa nghe thủng chuyện người ta nói đã ào ào như máy nước hỏng…”(tr.116).Sao lại bới lông tìm vết đồng nghiệp theo kiểu mẹ chồng nàng dâu như vậy hỡi nhà phê bình vốn từng cao đạo và sang trọng? Những cái nhìn thiếu tính nhân đạo ,những xúc xiểm khinh khi đồng nghiệp kiểu hàng xén vừa dẫn trên đầy tràn trong “Những kiếp hoa dại” Vợ chồng Xuân Quỳnh-Lưu Quang Vũ đã mất lâu rồi , sao khi viết về chân dung người nữ thi sỹ bất hạnh kia , Vương Trí Nhàn còn bới móc nỗi đau và tấn bi kịch đời tư tình yêu của người ta một cách suồng sã và bất nhẫn chừng này:”Và chị tưởng rằng với tình yêu ,mình có thể làm được tất cả , biến kẻ xấu thành người tốt ,gã đàn ông ích kỷ thành người chồng hết lòng với vợ con; thậm chí tình yêu vượt cả những xa cách về thời gian tuổi tác…”(tr.13) Vương Trí Nhàn cũng chẳng tha cả Xuân Diệu :”Đi với dòng đời (tên một bài thơ của Xuân diệu ) mà họ cứ cánh cánh bên lòng . Động có việc gì xẩy ra (mà trong cách mạng thiếu gì việc xẩy ra) là họ lấy mình ra xỉ vả “(tr.157) Vương Trí Nhàn lật tẩy xỏ xiên Nguyễn Khải :”Mấy năm trước , nằm mơ cũng không thể nghĩ có lúc Nguyễn Khải lại tự bảo rằng mình viết Tầm nhìn xa là bất nhân và giả dối “ (tr.171) .Dưới con mắt soi mói và ác ý của Vương Trí Nhàn , những bậc đàn anh tiền chiến mà ông từng ca ngợi nhiều năm bỗng hiện ra như tuồng lợi dụng , cơ hội và xấu xa :”Dưới hình thức những đặc ân đã có nhiều sự đền đáp không phải là không đáng kể .Trước các đặc ân ấy , những Xuân diệu , Nguyễn Tuân , Bùi Hiển ,Tô Hoài , Nguyễn Xuân Sanh … sớm nhận ra ngay và không bao giờ quên khai thác đến cùng “(tr.166) … Vương Trí Nhàn xuyên tạc ý nghĩa của việc nhà văn đi thực tế , một phương cách bám sát đời sống suốt nhiều chục năm văn học :” Khi công khai tuyên bố phải đi tìm cái đẹp ,cái tốt ở người công nhân ,ở người chiến sỹ ,có ý nghĩa là người viết văn cảm thấy mình và những người quanh mình hàng ngày sống phù phiếm ,vớ vẩn ,phải nhờ quần chúng tẩy rửa , thanh lọc để tâm hồn trong trẻo , sạch sẽ hơn . Đi thực tế ,do đó , là một cách từ bỏ tội lỗi “ (tr.162) Với những trích dẫn phân tích trên , chúng ta thấy Vương Trí Nhàn đã bất chấp sự thực lịch sử , không biết vì nguyên nhân gì mà ông nỡ lăng nhục cả một nền văn học của một thời , bới móc , khinh mạn , rẻ rung các nhà văn suốt một thời mà nhờ họ ,hay nói đúng hơn nhờ viết về họ , nhờ ca ngợi họ , ông mới có chỗ đứng trong văn đàn. Nhưng thực là mâu thuẫn , ở trang 70 cuốn sánh của mình , chúng tôi thấy một lần duy nhất ông vương nói đúng sự thật về một thời lãng mạn đã qua , ngược hẳn một trăm tám mươi độ với thành tích phủ nhận và xóa sổ nền văn học của cả cuốn sách :”Ngày nay ,có thể ta sống khác ,yêu ghét đã khác ,song nghĩ lại về cái thời ấy ,ta vẫ thấy bằng lòng với mình và tự nhủ rằng đó là những gì tốt đẹp nhất ,không dễ mà có “.

NHỮNG KHIẾM KHUYẾT CỦA TRÍ THỨC

Ở trang 65, Vương Trí Nhàn đã lầm lẫn khi cho trí thức là một cái nghề ,đến nỗi,ông dám đặt bút viết : “được biên soạn gần như giành riêng cho lớp công chúng chọn lọc , những người hành nghề trí thức”.Thưa rằng ,trí thức là trình độ của những người có học vấn cao,lao động bằng trí óc , có kiến thức chuyên môn giỏi trong hoạt động nghề nghiệp của mình .Ở trang 18 , Vương trí Nhàn viết :”Nguyễn Huy Thiệp muốn học theo bút pháp lạnh lùng hằn học của nhà viết sử Tư Mã Thiên “. Sử ký Tư Mã Thiên là cuốn sử vĩ đại của nhân loại , nếu nói như ông Nhàn , tác giả bộ sử ký lại phổ thái độ hằn học chủ quan của mình lên cuốn sách thì còn gì là lịch sử nữa . Quả là ông Nhàn chưa đọc kỹ bộ sử này , nên mới nói như vậy . Ở trang 45 Vương Trí Nhàn bỗng dưng tuyệt đối hóa Lâm Ngữ Đường , một nhà dịch thuật và trước tác Đài Loan có vị trí đứng khá sau , khá xa Quách Mạc Nhược và Hồ Thích :”ta liên tưởng tới giọng của triết gia Lâm Ngữ Đường trong cuốn sách được cả thế giới bái phục :MỘT QUAN NIỆM SỐNG ĐẸP” . Khiếp, làm gì tới mức như vậy , ngay cả nhân vật văn học số một Trung Hoa hiện đại là văn hào Lỗ Tấn cũng còn chưa được cả thế giới bái phục “,huống nữa là nhân vật thường thường bậc trung như Lâm Ngữ Đường !Nói Lâm Ngữ Đường là nhà triết học quả tình là ông Vương chưa hề biết gì về nhà văn trung hoa này cả . Những kiến thức tí mảy , lặt vặt như thế này chúng tôi còn thấy Vương Trí Nhàn mắc phải khá nhiều lần trong một cuốn sách . Nay, chúng tôi chỉ xin nêu ra một lỗ hổng khá lớn về kiến thức nơi tác gỉa cuốn sách này . Đó là quan niệm hết sức sai lầm của Vương Trí Nhàn khi tuyệt đối hóa thơ mới 1932-1945, coi nó là tuyệt đỉnh của thơ dân tộc để từ đó , coi thường , phủ nhận những giá trị truyền thống của hồn thơ dân tộc :”dù dè dặt đến mấy ,người ta cũng phải thừa nhận rằng từ năm 1932 về trước ,thơ Việt Nam như bị đóng kén lại trong một hình thức cổ điển gò bó ,tẻ nhạt :”(tr.88).Chẳng lẽ ,vì đề cao thơ mới lên địa vị độc tôn ,địa vị chúa tể của thơ , đến nỗi Vương Trí Nhàn sổ toẹt những áng thơ thiên tài của dân tộc mà không có gì vượt qua đượcnhư truyện Kiều, Chinh phụ ngâm , Cung oán ngâm khúc ,thơ Hồ xuân Hương …để coi nó là tẻ nhạt ư? Hóa ra , nhà phê bình họ Vương chưa kịp nghiên cứu kỹ những áng văn chương cổ dân tộc ,nên mới kết luận rằng những Xuân Diệu , Huy Cận , Hàn Mặc Tử ,Nguyễn Bính, Chế Lan viên ,…đều đã vượt lên đầu Nguyễn Trãi , Nguyễn Du ,Hồ Xuân Hương ,Nguyễn Gia Thiều Đoàn thị Đểm , Cao Bá Quát , Tú Xương (!) Do vậy ,nhà phê bình mới lật đổ các thần tượng thi ca dân tộc , xem toàn bộ di sản văn học đỉnh cao cuối thế kỷ thứ 18 đến đầu thế kỷ 19 là thứ không ra gì so với nền thơ Âu hóa :”Sự thắng thế của thơ mới so với thơ cũ là một sự kiện thuộc về “đổi mới hình thức” nhưng lại có tính nội dung cao độ .Nó góp phần đánh giá xã hội Việt Nam tiến sang thời kỳ hiện đại .Toàn bộ quy phạm thi ca cũ từ nay bị xem là đồ cổ .chỉ có ý nghĩa với người nghiên cứu lịch sử “ (tr.89) . Cứ tưởng Vương Trí Nhàn chỉ trở thành “anh hùng đổi mới “ khi ông nhắm mắt phủ nhận nền văn học đương đại mà trước kia ông từng ca ngợi . Hóa ra ,toàn bộ di sản thơ ca vĩ đại của dân tộc từ trước thơ mới ông cũng không tha ,cũng dung ngọn roi thơ mới quất nên hồn thơ cha ông những trận tơi bời hoa lá theo kiểu Tú Bà đánh Kiều , thì quả tình ,chúng tôi xin bái phục sự liều mạng kinh khiếp của ông Vương –một người từng chê các nhà văn Việt nam “thiếu cốt cách tri thức “(!)

Có lẽ , vì Vương Trí Nhàn cho rằng cả nền văn học chúng ta đều nằm trong thế giới lang chạ , cho nên ,ông mặc sức phát ngôn bất chấp tiêu chí tố thiểu của văn hóa giao tiếp , cũng như bất chấp cả thái độ cung kính ý tứ khi bước vào đền văn chương . Ông Vương coi cá mè một lứa ,đến độ ông đóng vai các nhà thơ nhà văn lớn để trả lời phỏng vấn do chính ông đặt ra. Giá ông viết lách đứng đắn và tôn kính tiền nhân thì chẳng nói làm gì ,đằng này , ông lang chạ hóa cả các bậc tiền bối , bờm sờm , bông phèng nếu không nói là thiếu lẽ phép khi xuống cõi âm phỏng vấn Xuân diệu : “-Kinh nghiệm tồn tại của ông trong văn học ? –Lúc làm thơ thì phải thật trong sáng .Nhưng lúc in thơ thì phải thật là cơ hội (cười )…(tr.52) Xuân Diệu ,một thiên tài thơ việt nam ,cần gì ông phải giở trò “cơ hội “ mới in được thơ .Thậm chí ,thơ ông chưa viết xong ,nhà xuất bản đã đến giục . Vương Trí Nhàn viết như trên là một sự súc phạm sâu sắc , một sự bôi bác ,mo6y5 đòn vu khống đánh vào hương hồn một tài thơ lớn của dân tộc nơi chin suối .

“Những kiếp hoa dại” của Vương Trí Nhàn quả là còn có nhiều cỏ dại . Có lẽ , do tác giả mặc cảm tư ti trước giới sáng tác , nên nhân có thời cơ “đổi mới “ , bỗng vùng lên ,ra sức sỉ vả các nhà văn Việt nam bằng những lời lẽ í tai dám dung nơi trường văn trận bút .Thậm chí , ông còn liều lĩnh mắng các nhà văn Việt Nam là ít học , là “thiếu cốt cách tri thức “. Chúng ta cũng chẳng nên oán trách vì sao ông lại cả gan xổ toẹt nền văn học mà ông từng ca ngợi , để dám gọi đồng nghiệp là điếm bút , là lang chạ như chúng tôi vừa trình bầy trên . Đến đây ,chúng tôi xin trả lại Vương Trí Nhàn câu nói mà ông gán cho giới phê bình văn học Việt Nam đã trích ở đầu bài này ,theo kiểu “Cái gì của Chúa xin trả lại cho Chúa ,của Caesar thì trả lại cho Caesar”; Xin ông Vương giữ lấy “một lời là một buộc vào khó nghe “ làm của riêng , làm vũ khí ngòi bút mình , để tiếp tục tiêu chí “đổi mới văn học “:”Là lang chạ vô nguyên tắc ,những cây bút phê bình không cần biết hay dở ,hợp gu hay không hợp gu ,viết bạt mạng ,viết lấy được ,suồng sã xô bồ trong thẩm định và đánh giá “ (tr.110…

Thành phố

Hồ Chí Minh đêm 5-7-1996

(Đã in báo “Quân đội nhân dân thứ bẩy số 31 năm 1996)

Trần Mạnh Hảo

Đừng công nghệ hóa văn chương


Báo “Tiền phong” thứ năm, số 28 ra ngày 6-7-1995 có in bài của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn với nhan đề chính “LÀM THẾ NÀO ĐỂ VĂN CHƯƠNG NƯỚC TA HỘI NHẬP VỚI THẾ GIỚI” và một nhan đề phụ khá hấp dẫn: “Không còn là thứ hàng nội địa”, khiến chúng tôi khấp khểnh mừng thầm. Rằng, Vương Trí Nhàn bằng nhiệt tâm rất hiện đại, rất công nghiệp hóa, rất quốc tế hóa của mình đã toan làm ngòi nổ cho quả pháo thăng thiên văn học Việt Nam bay lên và bay ra thế giới. Rằng, Việt Nam đã xuất khẩu gạo, dầu hỏa, sao không nghĩ đến quy trình xuất khẩu văn chương để lấy ngoại tệ về cho nhà văn và cho đất nước? Chúng tôi trân trọng, chia sẻ về niềm tâm huyết ấy và sự sốt ruột của ông Vương Trí Nhàn, với món hang văn chương đang như một con rùa trong quá trình tên lửa của sự hội nhập kinh tế thế giới. Nhất là từ tháng 7 năm nay, nước ta đã trở thành thành viên thứ bảy của khối ASEAN, thì sự đặt vấn đề hội nhập của ông Vương quả là khá nhạy bén về tính thời sự chính trị của vấn đề.

Nói hội nhập kinh tế Việt Nam vào kinh tế khu vực và thế giới quả tình đã thành khẩu hiệu hành động, thành cương lĩnh của chúng ta. Nhưng đặt vần đề hội nhập văn chương Việt Nam vào văn chương khu vực và thế giới thì còn cần phải bàn cái đã. Mặc dù, mỗi chúng ta ý thức được rằng, khi một tác phẩm nào đó được dịch ra nước ngoài và được hoan nghênh, khen ngợi, thì vinh quang đó không chỉ còn là vinh quang của nền văn học. Ai chẳng muốn thế giới nhìn Việt Nam bằng con mắt thán phục, không chỉ vì khả năng xuất khẩu gạo thuộc hàng thứ ba trên thế giới, mà còn vì chúng ta sẽ là một cường quốc xuất khẩu tiểu thuyết, xuất khẩu thơ ca và xuất khẩu cả lý luận phê bình văn học nữa theo sự đề xuất của Vương Trí Nhàn. Nhưng muốn là một chuyện và làm lại là chuyện khác. Bởi vì, một điều quá đơn giản là gạo, dầu lửa là sản phẩm chung của mọi dân tộc nên nó không cần phiên dịch. Nhưng văn chương muốn xuất khẩu phải qua quy trình quá nhiêu khê, rắc rối của nghệ thuật dịch. Văn học là vấn đề tâm hồn của một dân tộc. Người ta có thể dễ dàng dịch tiếng nói nước này qua nước khác. Nhưng khó vô cùng nếu phải phiên dịch tâm hồn dân tộc này ra tâm hồn dân tộc khác. Mỗi dân tộc có một tài sản quý giá vô cùng là ngôn ngữ của dân tộc ấy. Mà muốn nói đến văn chương là nghệ thuật của tâm hồn con người, tức nhiên phải nói đến ngôn ngữ khu biệt của từng dân tộc. Mỗi dân tộc chỉ có thể đóng góp cho nhân loại bẳng chính cái độc đáo rất riêng biệt của mình vậy. Do đó, về bản chất, việc hội nhập kinh tế và hội nhập văn chương vào thế giới là hai vấn đề rất khác nhau. Ở chỗ này, có lẽ do nhiệt tình nóng vội hay tự ti mặc cảm trước văn chương thế giới quá, Vương Trí Nhàn đã khá đơn giản và khá thô thiển khi toan biến văn chương thành công nghệ sản xuất như một mặt hàng xuất khẩu thuần túy vật chất.

Chúng ta hãy xem Vương Trí Nhàn viết: “Tôi xin trình bày rõ cái điều theo tôi nó làm nên sự tịch mịch trong văn chương chúng ta : nếu ví von thô thiển xem văn chương cũng là mặt hành sản xuất thì rõ ràng văn học ta vẫn quanh quẩn trong khu vực sản xuất hàng nội địa, chứ chưa toan tính làm những thứ hàng xuất khẩu. Nói chung, ta vẫn đang sản xuất văn chương theo những quy trình công nghệ cũ kỹ, chứ chưa theo kịp quy trình tiên tiến của thế giới…”

Quả tình, bằng những tiêu chí công nghiệp hóa, tự động hóa, dây chuyền hóa văn chương, ông Vương chừng như đã trở thành nhà phát minh quỹ đen kinh hãi nhất sang tạo ra những thuật ngữ văn học mang đầy tính công xã này. Chưa ai dám đặt tên cho văn học Việt Nam là “khu vực sản xuất hàng nội địa”, rồi đánh giá chất lượng của nó bằng thứ văn chương xuất khẩu như nhà lý luận phê bình văn học tiên phong này. Rằng với văn học, thế nào là “những quy trình công nghệ cũ kỹ” và thế nào là “quy trình tiên tiến của thế giới” thì ông Vương Trí Nhàn không hề giải thích. Chả lẽ ở nước ngoài có những công xưởng viết văn chăng? Hay chúng ta còn sáng tác văn học theo “quy trình công nghệ cũ kỹ” vì chúng ta chưa có những nền thơ được công nghệ hóa bằng rôbốt? Chúng tôi lấy làm tiếc, một người phê bình văn học gần ba mươi năm nay như ông Vương Trí Nhàn, sao lại quá lầm lẫn công nghệ nuôi gà công nghiệp và công việc viết văn? Nếu cứ thô thiển hóa mà gọi nghề viết văn là “quy trình sản xuất” đi, thì về bản chất nó khác xa với quy trình sản xuất hàng hóa khác. Bởi nó là nghệ thuật sáng tạo trong nỗi cô đơn, trong cảm xúc, trong trạng thái nhập thần hết sức cá nhân, hết sức mỏng manh và đơn lẻ của những cảm quan thiên giới, của cõi phiêu du và mơ mộng cuả tâm linh con người. Toan tính công nghệ hóa tâm hồn con người như thế, hóa ra ông Vương Trí Nhàn lại không nắm được bản chất văn chương ư? Hay là khi nói đến “quy trình sản xuất văn chương” ông Vương đã quên béng khâu quan trọng nhất là nhà văn-kẻ vượt cạn một mình để viết ra tác phẩm, để chỉ chú ý đến phương tiện dùng để viết như viết bằng bút trên giấy như từ nghìn xưa đến nay thì là ‘’công nghệ cũ kỹ rồi’’, còn viết trên máy vi tính mới gọi là ‘’quy trình tiên tiến của thế giới’’? Hay ông Vương lầm lẫn “quy trình sản xuất văn chương” ra chỉ ở khâu lưu thông phân phối, nghĩa là công đọan thị trường hóa văn chương trong công việc in và phát hành? Chịu. Có thể vì chúng tôi ít được ra nước ngoài nên không thấy được “quy trình viết văn tiên tiến của thế giới” như ông Vương chăng? Mặc dù theo ông thì có lẽ chúng tôi có thể cũng được xếp vào hàng thợ viết tiên tiến cỡ thế giới, vì chúng tôi cũng đang lụy cái máy vi tính cũ kỹ 386 mà cho ra những dòng này?

Đưa ra khái niệm “công nghệ viết văn cũ kỹ” và “công nhệ viết văn tiên tiến của thế giới” để hù dọa nhà văn Việt Nam, hay ông Vương muốn rung chuông báo động về sự lạc hậu của kinh tế và văn học của nước ta trước khu vực và thế giới? Ở chỗ này, ông Vương đã khá lầm lẫn khi đi theo một công thức: một đất nước có một nền kinh tế tiên tiến, cũng có nghĩa là sẽ có một nền văn học tiên tiến(!) Hãy nhìn năm con rồng châu Á ở quanh ta đang thăng tiến vượt bậc về kinh tế và kỹ thuật, nhưng nền văn học của các nước này liệu có tỷ lệ thuận với nền kinh tế phát triển của họ chăng? Đối với văn học thế giới ,chừng như nền văn học của năm con rồng châu Á kia trong mười năm qua ,cũng chẳng có gì hơn nền văn học hiện đại của chúng ta mà ông Vương cho là đang quá “tịch mịch”,trừ trường hợp Kim Dung của văn học Trung Hoa .Châu Âu trong ba mươi năm qua quá tiên tiến về kỹ thuật ,quá phát triển về kinh tế ,song văn học quả là “tịch mịch” .Trong khi châu Mỹ La tinh trong ba mươi năm qua trong khu vực thế giới thứ ba ,là các nước chậm và đang phát triển,lại có nền văn học “hiện thực huyền ảo” khiến thế giới phải kinh ngạc.Do đó ,lấy kinh tế ,lấy kỹ thuật làm tiền đề ,làm cơ sở cho sự phát triển văn học ,văn hóa là sự ngộ nhận đáng tiếc .Với hạ tầng cơ sở còn lạc hậu và chậm phát triển như thời cổ Hy Lạp , như thời bách gia chư tử của Trung Hoa cổ đại ,làm sao hai dân tôc này lại tạo ra thời đại có một không hai về sự phát triển tột bực của tư tưởng,của văn hóa ,của văn học rực rỡ đến thế ? Chúng ta hãy xem ông Vương viết tiếp:”các nhà nho xưa chỉ làm thơ viết truyện theo lối chép tay đưa cho nhau đọc,đấy là một quy trình ,quy trình sản xuất văn chương thời trung cổ.Còn đối với các nhà văn từ hồi chữ quốc ngữ được phổ biến …lại có một quy trình khác hẳn:viết theo đơn đặt hàng của thị trường,viết xong mang bán cho các tờ báo ,các nhà xuắt bản .Đến cụ Tản Đà thấm nhuần chất văn chương tài tử Hán học là thế,cũng phải sản xuất văn chương theo lối com-măng,rồi “mang thơ bán phố phường” mở đường cho các thi sỹ làm thơ để kiếm sống như Xuân Diệu,như Nguyễn Bính thời sau…”

Ở đây cần phải công nhận một sự phát hiện khá lý thú của ông Vương Trí Nhàn , mặc dù là sự phát hiện đã quá cũ: phương thức sản xuất thị trường theo kiểu tư bản của com-măng rõ ràng là tiến bộ hơn phương thức tự cung tự cấp thời phong kiến . Nhưng trong lĩnh vực văn học thì không hẳn như vậy.Bởi vì ông chê các nhà nho xưa của Trung Quốc cũng như của Việt Nam là “phương thức sản xuất văn chương quá cũ kỹ “ "quy trình sản xuất văn chương thời trung cổ”, theo phương thức ông đặt tên là “làm thơ viết truyện theo lối chép tay đưa cho nhau đọc”. Các nhà văn thời nay của thế giới văn chương tiên tiến của ông Vương Trí Nhàn, mặc dù được các nhà máy in hiện đại hỗ trợ , lại được phương pháp phát hành thị trường quảng bá , về bản chất , cũng chẳng khác gì sự sáng tạo văn học của người xưa ,nghĩa là cũng vẫn “làm thơ viết truyện theo lối chép tay đưa cho nhau đọc”. Nghệ thuật viết , dù bằng máy vi tính thì không phải là quá trình “chép tay" thì còn là gì nữa ? Rồi cái công đoạn “đưa cho nhau đọc”,dù đưa theo kiểu Phạm Quý Thích đưa bản truyện Kiều khắc gỗ,hay cách làm của in ấn phát hành hiện nay ,chỉ khác nhau về công cụ để truyền bá ,chứ về thực chất có khác gì nhau mà ông Vương dám chê cổ nhân lạc hậu,là trung cổ?.Sự lầm lẫn giữa phương tiện và mục đích ,giữa cứu cánh và phương pháp đã dẫn ông Vương đi từ ngộ nhận này đến ngộ nhận khác ,khi ông đặt ra vấn đề quy trình cũ ,mới của công nghệ sản xuất văn chương . Quy trình ấy dù đi từ công đoạn đầu tiên đến công đoạn cuối cùng , vai trò chủ chốt vẫn là cá nhân người nghệ sỹ sáng tạo ra tác phẩm có tài năng hay không tài năng , chứ không hề phụ thuộc vào công cụ phổ biến thô sơ hay hiện đại như ông Vương lầm tưởng . Có thể nghiên mực ,bút lổng ,giấy bản,hoặc thanh trúc,mảnh lụa của Khuất Nguyên khi ngồi viết “Ly Tao”,khi Nguyễn Du ngồi trước tác truyện Kiều là tối cổ ,là trung cổ như ông Vương Trí Nhàn đã nói . Nhưng cái tâm thức cái thiên tài của hai đại gia kia là cái cốt lõi làm nên hai tuyệt tác của hai dân tộc thì quả là không hề trung cổ, không hề lạc hậu cũ kỹ như ông Vương lầm tưởng .Ngày nay ,dù có nhập cảng công nghệ viết văn robot tiên tiến nhất của phương tây đi nữa , dân tộc chúng ta dễ gì đã vượt ra khỏi cái bóng tâm linh diệu vợi của Tố Như? Việc cho chung vào một rọ chủ đề sáng tạo là nhà nghệ sỹ sáng tác cùng với những công cụ ,phương tiện khi ngồi viết và sau khi tác phẩm hoàn thành,ri gắn cho nó một nhãn hiệu đơn giản ,dung tuc là”quy trình sản xuất văn chương”,để từ đó phân ra quy trình này lạc hậu ,quy trình kia tiên tiến là điều quá ấu trĩ của nhà phê bình văn học họ Vương vậy.

Việc ông vương cho rằng Tản Đà ,Xuân Diệu,Nguyễn Bính là “các thi sỹ chọn nghề làm thơ để kiếm sống “ là điều không đúng với sự thật .Tản Đà sống bằng nghề làm báo,làm nhà xuất bản ,thậm chí có lúc cụ hành nghề thầy bói ,hoặc nhờ các Mạnh Thường Quân bao bọc , như chủ báo Diệp Văn Kỳ ở Sài Gòn từng biếu cụ năm trăm đồng Đông Dương ,ch cụ có sống bằng nghề làm thơ bao giờ. Xuân Diệu và Nguyễn Bính cũng thế . Một người làm công chức nhà đoan Tây , một người sống lây lất quanh các tờ báo và nhờ bạn bè tốt bụng , đến nỗi đã phải dặn con :”nhất kiêng đừng lấy chồng thi sỹ / Nghèo lắm con ơi bạc lắm con”.Vương trí Nhàn đã đánh giá quá cao kỹ nghệ hàng hóa văn chương đến nỗi ông đã viết :”Nếu so sánh vẻ tấp nập ,cái hối hả sôi nổi của văn chương Việt Nam nửa đầu thế kỷ thứ hai mươi với văn chương các thế kỷ trước ,thì có thể không ngán ngại gì mà khẳng định rằng ,mỗi lần thay đổi quy trình sản xuất ,là y như văn học có đột biến “.Nghĩa là theo ông Vương ,từ quy trình sản xuất văn chương kiểu bút lông qua bút sắt ,văn học Việt Nam đã phát triển đột biến , đã mới mẻ , hay ho hơn cái “quy trình sản xuất văn chương thời trung cổ”. Nói quy trình sản xuất quyết định nền văn học là không biện chứng vì nó bỏ qua yếu tố con người . Về văn hóa , văn minh , dân tộc chuyển từ bút lông qua bút sắt`quả là một sự tiến bộ vượt bực của lịch sử , nhưng để xét nó trên bình diện văn học thì chưa chắc . Bởi vì , dù nền văn học trước năm 1945 với tự lực văn đoàn và thơ mới , theo ông Vương là “đột biến “,là “hối hả và sôi nổi “,thì thử hỏi có cây bút nào có thể dùng để so sánh , để đứng bên cạnh những tên tuổi vĩ đại của quá khứ , những đại biểu của “quy trình sản xuất văn chương thời trung cổ” như Nguyễn Trãi , Nguyễn Du , Hồ Xuân Hương , Đoàn thị Điểm , Nguyễn Gia Thiều , Nguyễn Khuyến ,Tú Xương …?

Lấy phương cách hướng ngoại làm lối thoát duy nhất cho văn học hiện đại Việt Nam , Vương Trí Nhàn chê bai văn học ta “coi văn chương chỉ là thứ hang nội địa “.nói như thế khác nào bảo tiếng Việt chỉ là thứ hàng nội địa , vì hì hục băn khoăn mãi để tìm cách xuất khẩu văn chương ra nước ngoài , cũng có khác gì quý vị toan xuất khẩu tiếng Việt , xuất khẩu ánh trăng và gió Việt Nam ra thế giới ? Nhà văn Việt Nam dùng tiếng mẹ đẻ viết nên tác phẩm cốt để nhân dân mình đọc , chứ nào phải cứ ngồi xuống bàn là cắm cổ viết , cốt để được dịch ra tiếng nước ngoài như ông Vương Trí Nhàn khuyến khích :”Với tư cách người sản xuất ,các nhà văn Việt Nam phải quan tâm mổ xẻ hiện tượng này ,xem viết như thế nào thì họ sẽ dịch …” Ơ hay , sao lại xúi nhà văn trước khi viết , hãy họp lại với nhau , làm các cuộc hội thảo lớn nhỏ , bàn xem là chúng ta viết như thế nào cho đúng “gu” ,đúng đơn đặt hàng,đúng khẩu vị của mấy ông tây bà đầm đ mới đạt được vinh dự là được dịch ra tiếng Anh ,tiếng Pháp ? Đánh giá văn học Việt Nam giá trị ở chỗ có được nước ngoài dịch hay không là một sự đánh giá khá phiến diện , thậm chí sai lầm của Vương Trí Nhàn . Chúng tôi không hề vơ đũa cả nắm để cho rằng người nước ngoài muốn giới thiệu văn học Việt Nam ra thế giới đều với một ý đồ phi văn học như trường hợp ông lái buôn người Úc Frank Palmos , kẻ không hề biết tiếng Việt , đã gần như tước đoạt bản dịch của người khác , để viết thêm vào ,sửa chữa ,cho cuốn “Nỗi buồn chiến tranh “của Bảo Ninh thành cuốn “the sorrow of war “ rồi đem cho nhà xuất bản Secker And Warner bên Anh quốc phát hành .Theo bà Phan Thanh Hảo khi trả lời phỏng vấn đài BBC , cuốn sách của Bảo Ninh khi qua tay phù thủy , đã trở thành một cuốn sách khác cơ bản với nguyên bản . Như vậy ,tờ báo Independent quả thực đã trao giải thưởng cho một cuốn sách khác mang nhãn hiệu Bảo Ninh vậy . Những trường hợp như thế này , liệu nền văn học Việt Nam khi được dịch ra thế giới , phỏng có thêm được niềm vinh dự nào chăng?

Lấy ngoại để dìm nội , lấy thế giới để cổ lỗ hóa nền văn học hiện đại Việt Nam ,Vương Trí Nhàn viết tiếp:”sự năng động trong hoạt động của nhiều ngành nghề trong xã hội hiện nay đã bắt đầu bằng việc hội nhập và làm tốt như người “.Điều này,có thể chỉ đúng với kinh tế và các ngành khoa học tự nhiên ,chứ với các ngành trong khoa học nhân văn , nhất là trong văn học thì việc hội nhập ,vviệc bắt chước để “ làm tốt như người “ như ông Vương chỉ dẫn có nhiều điều không ổn.” PHẢI LÀM TỐT NHƯ NGƯỜI “ như lời ông Vương khuyên ư ? nói như thế ,hóa ra,hàng trăm nhà văn miền nam Việt Nam di tản hai mươi năm nay , từng sống ở trung tâm kinh tế , kỹ thuật tiên tiến nhất của thế giới là châu Âu và Bắc Mỹ , hẳn đã làm tốt , đều gặt hái được các giải thưởng văn học lớn trên thế giới , kể cả giải Noben ? Trong khi đó, theo nhiều nhà văn tên tuổi người Việt di tản như Nguyễn Mộng Giác , Nhật Tiến , Du Tử Lê…từng trả lời trên đài RFI , đài BBC rằng hai mươi năm qua , văn học Việt Nam di tản quá đìu hưu không có được tác phẩm giá trị .Và họ đều cho là văn học quốc nội đang khởi sắc đang có nhiều tác giả và tác phẩm thành công ,gây tiếng vang cả trong lẫn ngoài . Chỉ có nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn trong nước đánh giá văn học Việt Nam hiện đại là “văn chương chúng ta ngoài một ít chuyện nhộn nhạo vặt vãnh , căn bản vẫn có cái vẻ tịch mịch chậm rãi như mấy chục năm nay… “ Thật là một nghịch lý thay cho một đầu óc vọng ngoại quá quắt như ông Vương Trí Nhàn ! Cứ đà này ,người Việt Nam muốn có những tác phẩm văn học làm thế giới bổ ngửa , cần học tiếng Anh sao cho mỗi nhà văn viết ra khỏi phải dịch , cứ đưa sang bên Mỹ là ok. Chúng tôi chia sẻ với ông Vương ở nỗi lo là các nhà văn Việt Nam hiện nay ít có người thông thạo tiếng nước ngoài , ít có dịp tiếp xúc với thế giới nên phần nào ảnh hưởng đến cái nhìn toàn diện của bản thân . Song le,điều đó không phải là một trong những yếu tố quyết định thành bại của cả nền văn học như ông lầm tưởng . Có một số quý vị do biết qua loa một vài sinh ngữ, đã hô hào lấy tiếng nước ngoài làm cứu cánh cho dân tộc cả về văn hóa lẫn kinh tế . Quý vị ấy suốt hai mươi năm nay đang ra sức phấn đấu nằm mơ bằng tiếng nước ngoài ,cốt để cảm được những hồn thơ các dân tộc ấy mà dùng lý trí không sao tới được . Xin đừng bắt cả nền văn học việt Nam cũng phải tư duy , phải nằm mơ bằng tiếng nước ngoài như quý vị vong ngữ ,vong hồn kia !

Nói tóm lại ,với một bài báo quá ngắn , nhưng Vương Trí Nhàn đã bộc lộ nhiều điều phiến diện ,chủ quan thậm chí ấu trĩ về bản chất văn học , về công việc sang tạo của nhà văn , về phương tiện và mục đích của văn học, về sự hướng ngoại mù quáng và óc tự ti dân tộc , coi thường văn học trong nước, lấy văn học nước ngoài làm tiêu chí , làm hướng đi cho văn học Việt Nam . Lần đầu tiên , có một nhà lý luận văn học khá nổi tiếng như Vương Trí Nhàn , đã quá liều mạng biến một nghệ thuật vi diệu , tinh tế của tâm hồn con người là văn chương thành xưởng máy , thành công nghệ hàng loạt theo “quy trình sản xuất văn chương “,lại còn chia ra bên này là “quy trình công nghệ cũ “,bên kia là quy trình công nghệ tiên tiến “ một cách cụ thể theo kiểu bút lông và bút sắt , viết bằng máy vi tính hay bằng ngón tay cầm bút cổ lỗ nghìn đời . Vương Trí Nhàn còn cho rằng ,chỉ có thị trường hóa , hàng hóa văn chương , theo kiểu hội họa vẫn được mời ra thế giới triển lãm , mới giúp văn chương Việt Nam hội nhập vào văn chương thế giới . Những dân tộc có nền văn học lớn như Pháp ,Đức ,Anh ,Trung Quốc …lại chủ trương hội nhập văn học thế giới vào nền văn học của nước họ ,chứ không tìm cách quăng văn học của họ ra thế giới vô định này để thui thủi , tẽn tò đưa tình liếc mắt , bắt tay bắt chân với những nền văn học xa lạ như ông Vương Trí Nhàn cổ võ .Chỉ khuyên ông Vương Trí Nhàn hãy nhìn sang Nhật Bản và một số nước khác ,để thấy một kinh nghiệm cốt tử rằng ,kinh tế càng hướng ngoại bao nhiêu thì văn hóa càng phải hướng nội bấy nhiêu để cân bằng ,nếu như không muốn đánh mất bản sắc dân tộc .Văn học chúng ta đang là một trong những mũi nhọn của văn hóa dân tôc ,cần phải biết cách hướng ngoại để chúng ta trở về hướng nội hơn nữa.Nó quả là mặt hàng nội địa thứ thiệt,một sản phẩm nội hóa của tiếng Việt ,của tâm hồn việt ,chứ nào phải là một mặt hàng xuất khẩu như nhà phê bình văn học họ Vương chủ trương .Với lại ,trong bản chất của mình ,văn chương cao quý ,thiêng liêng không phải là một món hàng tươi sống hoặc thiu thối trong tay con buôn.Qua bài viết ngắn như một tuyên ngôn về nền văn học hướng ngoại của mình ,cho phép tôi được quyền nghi ngờ khả năng nhận thức ,trình độ và tư duy năng động của một trong những ngọn cờ đổi mới phê bình lý luận văn chương là ông Vương Trí Nhàn- một nhà công nghệ học của văn chương hiện nay …

Thành phố Hồ Chí Minh ngày 7-7-1995

(Đã in "Văn Nghệ" số 30 năm 1995)

Trần Mạnh Hảo

Cùng đối mặt với Những chấn thương tâm lý hiện đại

(TBKTSG) - Về tập phiếm luận Những chấn thương tâm lý hiện đại của tác giả Vương Trí Nhàn, do Thời báo Kinh tế Sài Gòn tuyển chọn, vừa được NXB Trẻ phát hành.

Có thể nói diện vấn đề được đề cập ở Những chấn thương tâm lý hiện đại rất rộng rãi.

Từ những việc nhỏ nhặt tưởng chừng chẳng đáng quan tâm như đôi dép dưới chân, cái mũ bảo hiểm trên đầu hoặc cái túi ny lông đựng rác, thùng nước gạo của mỗi gia đình... đến những hiện tượng nhạy cảm hơn như tác hại của tiếng ồn đã vượt ngưỡng chịu đựng, rồi nạn cờ bạc lan tràn từ đàn ông đến đàn bà, từ người dân thường đến quan chức nhà nước, hoặc sự bất cập đáng phàn nàn của hiện tượng lạm phát lễ hội, sự tha hóa của ngôn từ, sự lan tràn của thói ứng xử thô bạo, hung hãn giữa người và người, cung cách thông tin trong một xã hội tiểu nông, bệnh ảo tưởng thâm căn cố đế của người mình…

Từ những vấn đề mang tầm quốc kế dân sinh như vấn nạn ùn tắc giao thông, hiện tượng diện tích nông nghiệp thu hẹp vì bị lấy đất mở mang đô thị, quá trình khó khăn chuyển từ lối sống thời chiến sang thời bình... cho đến những điều động chạm tới niềm âu lo chung của cả loài người trên khắp hành tinh như hiện tượng rác thải, ô nhiễm môi trường sinh thái, quá trình hội nhập giữa các quốc gia, tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu…

Khi đề cập tới những vụ việc lẫn vấn đề miên man, tản mạn và trọng đại như thế, Vương Trí Nhàn thường từ tốn khoanh phạm vi bài viết trong những giới hạn tương ứng với dung lượng của các trang báo… Mỗi bài chỉ nhằm vào một khía cạnh nào đấy, khía cạnh khác sẽ được bàn bổ sung bằng bài viết khác. Có cả một loạt bài cùng quy tụ về vấn đề đô thị hiện đại ở Việt Nam. Riêng hiện tượng ùn tắc giao thông được dành riêng một cụm bài, hiện tượng hỗn loạn ở các lễ hội lại có một cụm khác.

Cách tiếp cận của Vương Trí Nhàn với các hiện tượng khá linh hoạt, uyển chuyển. Bên cạnh những quan sát cụ thể từng hiện tượng, vụ việc riêng lẻ, là khả năng huy động tối đa tri thức sách vở. Bên cạnh hiểu biết về tình hình hôm nay là những bài học từ lịch sử. Bên cạnh chuyện ở ta là chuyện bên Tây, bên Tàu… Khi đặt những cái tưởng như xa nhau bên cạnh nhau, ông dẫn chúng ta tiến sâu vào những quan hệ bên trong giữa chúng. Từ những gì ẩn chìm dễ bị che lấp, ông thường xuyên phát hiện ra những căn nguyên tinh thần bao trùm trong hành động và các mối quan hệ tế nhị giữa người với người.

Qua sự phân tích, ở ông nổi lên thật rõ một khao khát là nhận diện thực chất của các chấn thương tâm lý mà con người hiện đại phải chấp nhận.

Chúng ta ngạc nhiên một cách thú vị, khi bắt gặp trong tập phiếm luận những phân tích, lý giải mạnh bạo, thẳng thắn, sâu sắc mà thuyết phục của tác giả khi tìm ra được những liên hệ mang tính bản chất từ các hiện tượng ngỡ như rất xa cách nhau. Chẳng hạn từ thảm cảnh đau xót về thân phận các cô dâu Việt Nam lấy chồng ngoại mà đa phần là các cô gái gốc gác nông thôn, Vương Trí Nhàn thấy được ở đây có sự tác động ghê gớm của quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa nông thôn. Hoặc qua phong thái vội vàng, chen lấn tìm mọi cách để vượt lên trước trong đi lại trên đường phố hôm nay, ông phát hiện ra dấu vết của lối sống vội vã, nôn nóng và hời hợt, quen đặt số lượng trên chất lượng vốn phổ biến trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống chúng ta hiện nay. Bài Cái vội của người mình là một trong những bài khá nhất của tập sách. Qua cách sử dụng thời gian của con người, tác giả hướng đến khái quát về sự có mặt của một tầm nhìn chật hẹp chỉ biết cái trước mắt, không thấy cái lâu dài, toàn diện. Rồi ông còn nhìn ra được ở đây có dấu vết của tâm lý tự ti: “Biết rằng mình đã quá lạc hậu với thế giới nên phải truy đuổi trong tuyệt vọng”. Sau nữa, tác giả còn chỉ ra ở đây bóng dáng của tình trạng “hỗn loạn trong cảm giác về giá trị, từ đó tạo nên ám ảnh lấy thịt đè người, chỉ có nhanh mới hốt được của thiên hạ”.

Có thể ai đó chưa chia sẻ với lối truy nguyên hiện trạng để đi tới đoán bệnh, luận bệnh một cách riết róng ở đây, vì cảm thấy nó tàn nhẫn quá? Lại có thể cho rằng, trong tâm thế bột phát khi suy nghĩ, tác giả đã bị đà suy luận cuốn đi mà dẫn đến những nhận định cực đoan quá mức? Thì xin mời bạn cứ việc phản biện bằng lý lẽ và nêu chứng cứ ngược lại. Biết đâu từ những cuộc đối thoại thẳng thắn như thế, chúng ta sẽ đến gần được hơn với sự thực!

Tiếp tục suy nghĩ là quyền của bạn và tôi có cảm tưởng người viết tập phiếm luận này sẽ rất sung sướng khi biết điều này - bao nhiêu giấy mực viết ra, cuối cùng ông chỉ mong có thế.

Cứ sống thế này thì nhắm mắt sao nổi”

Câu nói của nhà văn Nga Tchekhov được Vương Trí Nhàn trích lại trong “Những chấn thương tâm lý hiện đại”. Dường như, đó cũng là tiếng cảm thán của chính tác giả, và của nhiều người về sự xuống dốc của lối sống hiện nay.

“Ai bảo tôi lạc hậu tôi xin nhận”

Vương Trí Nhàn tự nhận về mình cái tiếng lạc hậu, để phát biểu lên những suy nghĩ về lối sống hiện đại mà theo ông là đang trong một cơn chấn thương mạnh.

Ông tẩn mẩn xem xét khắp lượt cái cách người ta đi lại, ăn nói, giao thương, lễ lạt, ăn uống, tiêu dùng… để chỉ ra: “Triết lý hưởng thụ thấm sâu trong những người dân thường”, “thô bạo đã trở nên một thứ khí hậu trong mối quan hệ bình thường.”, “lối sống ô-sin” hay “sự tha hóa trong tiếng nói của ta đã bắt đầu tư lâu lắm”…

Đau đầu nhất, đáng phiền muộn nhất trong những câu chuyện ở một đất nước đang đô thị hóa chóng mặt là chuyện giao thông. Cái hỗn loạn trong giao thông là hệ quả, hay cũng là phản chiếu của sự hỗn loạn trong tâm lý.

Trong sự hội nhập của người mình – theo tác giả - vẫn không theo được lề luật chung, không bỏ được lối làm ăn tủn mủn, vụn vặt, trông tránh được gian dối. Hội nhập làm rõ thêm những khuyết điểm cố hữu trong bản thân xã hội tiểu nông.

“Còn những cái mất, những hư hỏng như học đòi học mót, đua đả hưởng thụ quên cả lịch sử tổ tiên mà gần đây ai cũng thấy chướng? Bởi chúng xuất hiện nhiều trong thời hội nhập nên ta tưởng tất cả lỗi là từ ngoài vào. Nhưng nói thế là nhầm.

Cái chính là những căn bệnh đó đã sẵn có trong nội tạng xã hội, quá trình hội nhập chỉ làm chúng bộc lộ rõ mà thôi.” (Qua tiếp xúc với người mà hiểu thêm mình)

"Thế nghĩa là thế nào?"

Nhiều sự chướng tai gai mắt thế, lắm cảnh ngược đời thế, thế nghĩa là thế nào? Cái đạo lý nào lại sinh ra những chuyện ấy?

Trong mỗi mẩu chuyện riêng, tác giả dần đưa ra một vài kiến giải riêng. Cái căn nguyên cội rễ được nhắc lại khá nhiều lần là những tàn tích tinh thần từ chiến tranh.

"… Tuy đã ra khỏi chiến tranh, song cái thói quen sống một mình ở cả cộng đồng càng được cố kết lại để làm nên nhiều ảo tưởng. Khả năng tự nhận thức lúc ấy bị hạn chết. Ta bằng lòng với mình. Ta ngại thay đổi. Ta thấy chỉ có ta là nhất.

Từ góc độ của những người từ chiến tranh bước ra, cái tội không thạo việc thạo chuyên môn chỉ là chuyện nhỏ, đánh nhau khó bằng mấy còn làm được, nữa là quản lý kinh tế, cứ quyết tâm và có kỷ luật là hoàn thành tất. Nhưng có phải sự đời đơn giản thế?" (Tôi nghiệp dư, anh nghiệp dư, nó cũng nghiệp dư)

Hay như trong một mẩu chuyện khác ông viết:

"Không khó khăn gì lắm để tìm ra lý do khiến chúng ta có nhiều thói xấu như vậy. Trước hết là cuộc chiến tranh kéo quá dài. Trong Câu chuyện triết học, phần viết về H. Spencer, W. Durant cho rằng “xã hội chiến tranh thường ca ngợi một vài đức tính (nguyên tắc ứng xử - VTN) và dung túng cho những việc mà các dân tộc khác xem là có tội”.

Nếu nơi không chiến tranh, con người quảng đại và nhân đạo, thì nơi chiến tranh kéo dài, người ta quen với cướp bóc phản bội. Đây là luật phổ biến song người ta thường quên và tự cho mình là một ngoại lệ.

Con người hôm nay lao vào cuộc làm ăn kinh tế, mà thói quen sống kiểu chiến tranh còn nguyên vẹn. Kinh tế thị trường rút lại được hiểu là thói cạnh tranh không lành mạnh, nói nôm na là chúa đã chết, ai luốn làm gì thì làm. Thành thử có xảy ra lộn xộn hỗn hào thì cũng là điều dễ hiểu. Từ chỗ chăm chăm chửi bới kẻ giàu cho rằng kẻ giàu là xấu, nay người ta lao vào làm giàu để rồi lãnh đủ những xấu xa bỉ ổi đó, và đưa cái ác lên một trình độ hiện đại đáng sợ.

Trong trạng thái như lại muốn thốt lên “cứ sống thế này thì nhắm mắt sao nổi”, tác giả nảy ra một ý:

Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy và dung túng dân làm bậy. Tội làm hư dân." (Tội làm hư dân)

Không lẽ, lại như lời của một nhân vật, mà tác giả đã nhận là “vô cảm, nhưng là thực tế”:

“Khi không thay đổi được hoàn cảnh, tốt hơn hết là chấp nhận cho xong. Chứ đã biết là không ngăn chặn được tình trạng này từ gốc, mà thỉnh thoảng lại nổi cơn sụt sùi thương xót, cho phép nói thật nhé, thấy buồn cười lắm.” (Tổ chức đời sống nông dân sao đây?)

Và đôi lời về sự bế tắc…

Chỉ ra những khuyết điểm trong đời sống tinh thần của xã hội là một điều quan trọng để tiến đến nhận thức đầy đủ về bản thân xã hội. Và điều được mong đợi hơn cả là chỉ ra một lối thoát. Cả hai điều này, người đọc đang rất trông chờ ở giới nghiên cứu VN.

Dù có không ít cuốn sách tự trào, tự giễu về các thói hư tật xấu của người Việt Nam, (chưa kể, hàng ngày trên báo chí có rất nhiều bài viết cùng dạng này), nhưng hiếm thấy một cuộc điều tra xã hội học nào rộng khắp, hay một nghiên cứu đầy đủ nào với các dữ liệu thực tế, thực hiện trong một thời gian đủ dài với số lượng mẫu hỏi đủ lớn để đưa ra các kết quả thực tế.

Các nhà nghiên cứu thường chỉ dừng ở góc độ quan sát các nhân, trong vùng phạm vi trải nghiệm của họ về cuộc sống xung quanh. Do vậy khó tránh khỏi sự thiếu tính phổ quát về các vấn đề mà họ gọi là “người Việt”, hay “xã hội ta”.

Tương tự, các khái niệm thời gian thường chỉ được nói đến một cách chung chung “ngày nay”, “bây giờ”…, thay vì được xác định cụ thể trong một giai đoạn thực hiện nghiên cứu cụ thể.

Vì những điều nói trên, nên có lẽ việc đòi hỏi người viết đưa ra các giải pháp để giải quyết các hạn chế nhận thức xã hội và tâm lý của người Việt là một điều chưa thể. Vẫn biết các biểu hiện của các “thói hư tật xấu” có muôn hình vạn trạng, nhưng làm thế nào để thay đổi, thay đổi bắt đầu từ ai/cái gì? Khi không có những cứ liệu phân tích cụ thể trên diện rộng, thì làm sao có thể đưa ra giải pháp có tính thực tiễn?

Người đọc – bao gồm cả những người đang nhận thức được chấn thương tâm lý của bản thân mình và những người xung quanh – vẫn đang chờ đợi ở các nhà tâm lý một sự kiến giải rõ ràng hơn.

Linh Thủy
Tuần Việt Nam
03:55' PM - Thứ hai, 21/09/2009
SỐ TRUY CẬP