Cần ý thức về sự thiêng liêng của hai chữ "con người"

15/10/2008 03:14:31
(SVVN) Việc các cơ quan chức năng liên tục phát hiện các vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; gian lận trong kinh doanh xăng dầu; “trộm” cước taxi... trong thời gian gần đây, thực sự không chỉ là bài học về công tác quản lý nhà nước của các cấp, các ngành. Nó còn gợi lên một chủ đề rất đáng suy nghĩ: phải chăng, người Việt đang lâm vào một thời kỳ suy thoái/xuống cấp về văn hóa - như nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn nhìn nhận? Ý kiến dưới đây như một đề dẫn cần được nghiên cứu, phản biện nghiêm túc, khoa học. SVVN xin trân trọng giới thiệu và mong nhận được nhiều ý kiến thảo luận.

Xã hội như một rừng cỏ gianh

Thưa ông, là một người chuyên nghiên cứu về đời sống văn hóa nội tâm của người Việt, trước hàng loạt vụ việc gian lận một cách trắng trợn và có hệ thống, bị phát hiện trong thời gian gần đây, ông cảm nhận được điều gì?

Khác với bà mẹ Lê hay cô hàng xén trong truyện ngắn của Thạch Lam, dù nghèo khó vẫn rất giàu lòng tự trọng, không ít người Việt ngày nay coi việc “đói ăn vụng, túng làm càn” là đương nhiên. Tôi mà nghèo hơn người khác thì tôi có quyền làm bậy. Chính vì thế, không chỉ vấn đề môi trường thiên nhiên bị tàn phá (điển hình như vụ Vedan) mà cả môi trường văn hóa, môi trường ngôn ngữ... cũng đang hết sức nhếch nhác, luộm thuộm. Nó làm hại đến khả năng giao tiếp, khả năng kết dính của toàn xã hội.

Quan hệ giữa người với người tệ tới mức đáng báo động. Hình như nhiều người sống bằng lòng căm giận người khác thay vì đáng lý phải yêu thương, chia sẻ, nhẫn nại, hy sinh... Nguy hại hơn, hiện tượng này xuất hiện ở cả hai nhóm đối tượng là quần chúng đông đảo và cả ở những người vốn được coi là trí thức, là những người có văn hóa, là tinh hoa của xã hội.

Nhưng nhiều nước đang phát triển cũng không phải không gặp vấn đề giống như ở ta?

Tất cả các nước trên thế giới đều có những giai đoạn khủng hoảng, suy thoái... về mặt văn hóa khi những khuôn khổ cũ bị phá vỡ. Nó đòi hỏi phải có những nghiên cứu nghiêm túc. Và lẽ ra, chúng ta cũng cần phải làm như vậy. Tiếc là chúng ta nghiên cứu chúng ta còn ít quá.
Tôi vẫn hay nghĩ, xã hội Việt Nam bây giờ giống hệt một rừng cỏ gianh, người nào cũng ghê gớm cả, người nào cũng kiên quyết vươn lên nhưng lại sàn sàn như nhau cả. Trong khi đó, một xã hội nếu phát triển bình thường thì phải như một cánh rừng nguyên sinh, có cây cao bóng cả, có cả những dây leo... Ở đó, phải có những người biết vui vẻ hỗ trợ một người để cho người đó vươn tới được đỉnh cao. Nhưng trong đời chẳng mấy khi thấy được điều đó.
Nói một chuyện cho vui, tôi có nghe một vài giáo sư than thở, là bị các cô ở thư viện lấy tiền photocopy cao quá; tôi chỉ cười thầm vì tôi thì luôn được họ giúp đỡ hết lòng. Tại sao? Vì họ biết tôi viết xong bài báo chỉ được chút nhuận bút còm, tính chi ly thấy “lỗ vốn” nữa. Còn ông giáo sư kia vớ bộn tiền từ công trình mà chẳng bỏ công ra bao nhiêu (có khi còn sai học trò đi làm photocopy thay cho mình nữa). Từ chỗ không phục nhau, người ta sinh ra thói quen thích hành hạ nhau và lợi dụng mọi hoàn cảnh để vụ lợi. Mà chuyện đó bây giờ quá phổ biến.

Ý ông là, xã hội Việt Nam hiện nay cũng đang ở trong một thời kỳ “khủng hoảng”, “suy thoái” về văn hóa?

Vâng, tôi cảm giác là văn hóa đang xuống cấp hoặc cũng có thể gọi là suy thoái. Ngày xưa, học sinh bí quá mới copy bài, còn bây giờ là copy một cách có chủ định, có chuẩn bị từ trước... Mà chẳng cứ học sinh, sinh viên rồi cả các thầy cũng thế! Mỗi lần có người hỏi tôi, thói hư tật xấu của người Việt trước đây và bây giờ khác nhau như thế nào, tôi phải dẫn ý của nhà văn Tô Hoài để đáp rằng: “Nhiều thói hư tật xấu hơn nhưng lại tài giấu giếm hơn”.
Giỏi cãi và ngụy biện lắm nhưng thực chất là tự lừa mình trước những cái xấu, cái dở. Bạn có thấy rằng, lâu nay rất ít người nói với bạn về những cái xấu của bạn không? Rất ít những người như vậy vì họ sợ nói ra, sẽ mếch lòng người khác. Nói khéo, nói tốt thì người ta mới đỡ ghét.
Suy cho cùng, một xã hội như vậy là một xã hội của những nông dân. Ngay những văn, nghệ sỹ, trí thức quanh tôi cũng là nông dân đi làm văn chương, nghệ thuật, học thuật... Việc “làm ăn”, cách cư xử của họ cũng hệt như kiểu ở nông thôn, manh mún như trong một nền nông nghiệp cổ điển. Họ cũng rất dễ chạy theo những giá trị giả tạo, không thật và ít biết tự mình quản lý chính mình.
Mỗi chợ một cân, mỗi đồng hồ chỉ một giờ

Theo ông, vì sao xã hội ta lại có tình trạng đáng buồn vừa nêu?
Một thời gian dài chúng ta sống với chiến tranh. Trong chiến tranh, con người mất hết khao khát, bằng lòng với cuộc sống, miễn sao tồn tại được. Chiến tranh gây nên sự phá chuẩn mực. Chiến tranh cũng làm con người ta dễ thả lỏng, chiều chuộng bản năng mà ít chú ý tới lý trí.

Nguyên nhân thứ hai có lẽ nằm trong “mã di truyền”, trong cốt cách của dân tộc. Cái này thấy rất rõ trong văn học dân gian, nơi chứa đựng nhiều yếu tố phá phách, hư vô, đùa bỡn trước mọi sự đời...
Sự suy thoái về văn hóa cần phải được “chữa trị” như thế nào, thưa ông?
Tôi cho là trước khi chữa chạy, chúng ta phải gọi chính xác tên của nó ra. Đã đến lúc giới khoa học, đặc biệt là các nhà xã hội học, tâm lý học, dân tộc học phải vào cuộc. Tôi được biết, sinh thời, các nhà khoa học lớn của chúng ta như Tạ Quang Bửu hay Trần Đại Nghĩa đều rất quan tâm tới chiến lược con người, tâm lý con người... Hay như Bá Dương, ngoài cuốn Người Trung Quốc xấu xí nổi tiếng mà chúng ta đều biết, ông cũng chính là tác giả của Lịch sử người Trung Quốc.
Ở đó, ông đã loại hình hóa các mẫu người Trung Quốc trong từng tiến trình lịch sử, chẳng hạn như khi nào thì loại người cơ hội xuất hiện... Tuy nhiên, bên cạnh những người phản ánh, tổng kết thì cần có những người biết nhìn xa hơn một chút. Văn hóa không phải chỉ là chuyện cờ, đèn, kèn, trống mà là một cái lớn bao trùm lên hết thảy, từ chính trị, kinh tế, xã hội...

Liệu có thể dùng luật pháp để điều chỉnh hành vi con người, một cách “vĩ mô”, dài hạn, trong trường hợp này được không, thưa ông?

Nhiều người thường nhìn nhận vấn đề theo góc độ luật pháp. Tôi thấy, một là trình độ luật pháp ở nước ta còn rất non nớt, quá trình soạn thảo còn đơn sơ, chưa bao quát hết mọi chuyện, điều chỉnh thì chậm chạp và chậm thích ứng với xã hội hiện đại. Hai nữa, còn đáng lo hơn cả vấn đề luật pháp là chuyện lương tâm con người. Con người trong xã hội chúng ta “làm người” như thế nào? Xã hội bây giờ có tình trạng “loạn cương”, phi chuẩn hóa, mỗi chợ một cân, mỗi đồng hồ chỉ một giờ. Trong hoàn cảnh như vậy thì anh nào mạnh mồm, liều lĩnh, anh ta sẽ thắng. Mặt bằng giá trị không còn, con người không còn biết đến sự thiêng liêng.

Thậm chí, ngay cả đến thần thánh họ cũng chỉ biết đến cầu lợi, hối lộ. Những niềm tin kiểu đó sao mà chắc chắn được. Có vẻ như dân ta rất thiếu nghiêm chỉnh trong việc làm người. Việc đánh thức lương tâm để mỗi người tự nhận thức và ý thức được sự thiêng liêng của hai chữ “con người”, vì vậy, là vô cùng cần thiết!

Bằng kinh nghiệm và sự nhạy cảm của một người nhiều năm làm văn hóa, tôi tin đã đến lúc chúng ta phải nói thật với nhau: Giống như lạm phát trong kinh tế, văn hóa của chúng ta đang thực sự ở trong tình trạng khủng hoảng/xuống cấp/suy thoái. Khi bắt đầu nghĩ như vậy, tôi cũng cảm thấy buồn và muốn tự bác bỏ mà chưa làm nổi. Tôi cầu mong có thêm ý kiến của các bạn, dù là đồng tình với tôi hay phản đối tôi, xin hãy thử trình bày lý lẽ đàng hoàng xem sao!

Xin cảm ơn ông!


Kiều Hải (Thực hiện)

“Trong các kinh điển của Nho gia, tôi rất thích cuốn Luận ngữ. Hóa ra, Khổng Tử không chỉ khuôn phép như mọi người vẫn hình dung. Ông còn là bậc thầy trong việc hiểu được con người, một nhà nhân học vĩ đại. Khổng Tử đề ra giả định rất cao về khả năng con người xấu đi. Ông mô tả loại người tiểu nhân với tất cả vẻ đa dạng của họ, ông cảnh báo con người có thể rất dễ rơi vào những cái tầm thường mà mình không ngờ. Khổng Tử đề cao người quân tử với nghĩa con người của lý trí và từng cho rằng, giàu mà đứng đắn không khó bằng nghèo mà không làm bậy. Mạnh Tử cũng quan niệm, con người phải khẳng định những việc không thể làm thì mới nên việc lớn được. Người sáng suốt phải là người biết tiết dục, sống không phải bằng đố kỵ, ham muốn... mà phải bằng sự giao đãi với vũ trụ, nhân quần (“nhân” ngoài nghĩa “yêu người” như chúng ta vẫn hiểu thì nó còn được các bậc thầy của đạo Khổng dùng với ý là “việc lớn”, việc phải làm trong đời)”.

Người Việt có thật sự ham học?

Khi nhắc về những lợi thế của Việt Nam trên con đường phát triển, yếu tố ham học thường được nhắc đến.

Người Việt Nam được nói là có truyền thống ham học hỏi, có ý chí vươn lên và học giỏi.
Những gương học giỏi của sinh viên, một số nhà khoa học có tên tuổi, hay các gương thành đạt được dẫn ra như những ví dụ tiêu biểu.
Tuy vậy, bên cạnh đó còn có thực tế là những nghiên cứu, phát minh của người Việt trên bình diện thế giới còn rất ít.
Trong cuộc phỏng vấn mới đây của đài BBC về thói quen đọc sách của người Việt hiện nay, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, từ Hà Nội, có một nhận xét:

"Trước kia khi còn nhỏ, tôi vẫn thường nghe nói là dân mình thích đọc sách và ham học. Nhưng gần đây tôi có cảm tưởng có lẽ không phải như thế."

"Như vấn đề học, đôi khi nghĩ lại thì có vẻ như người Việt mê khoa cử thì đúng hơn. Tìm kiếm bằng cấp để kiếm sống, chứ không phải là ham học."

Mời quý vị cho biết suy nghĩ quanh câu hỏi về sự học của người Việt? Có thật là chúng ta ham học hỏi, phát triển như các bình luận thông thường vẫn nói?

Vương Trí Nhàn: "Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ"

Ho ten: Nguyễn Minh Trí
Dia chi: 136/17 Lý Nam Đế, thành phố Huế
Email: minhtri.for@gmail.com

Đầu tiên cho tôi gửi tới ông Vương Trí Nhàn sự đồng tình với những nhận định trên. Nhưng để thay đổi một quan niệm hoặc tập quán là vô cùng khó, chúng ta cần một hệ thống thống nhất để định hướng và thúc đẩy mọi người cùng điều chỉnh trong một chu kỳ thời gian dài, cụ thể tôi có một số đề xuất như sau:

- Tạo một diễn đàn online và trực tiếp

- Nên có các buổi toạ đàm và giao lưu giữa những nhà văn hoá và giới trẻ

- Cải tổ mạnh hệ thống giáo dục Vịêt Nam

- Nên có một nền hành pháp lành mạnh

Email: vulongv@hn.vnn.vn

Nhìn chung tôi không tán đồng với những ý kiến của ông Nhàn về đặc điểm của dân tộc Việt nam. Đặc biệt cho rằng đặc trưng của người Việt là tính tự phát ( khối tự phát). So sánh là cần thiết, nhưng luôn luôn khập khiễng. Cả thế gới này chỉ có mấy nền văn minh cổ. Chúng ta không nằm trong số đó, nhưng từ đó cho rằng chúng ta là thua kém liệu có đúng chăng?

Phải xuất phát từ rất nhiều phía , nhiều sự kiện trong đời sống lịch sự mới rút ra được đặc tính của một dân tộc; không chỉ có mặt tốt đẹp mà có cả mặt hạn chế thập chí là xấu (cũng là so sánh tương đối với một số dân tộc khác một cách phiến diện thôi). Tiế rằng ông Nhàn là một nhà phê bình văn học mà đưa ra những ý kiến thiếu chuẩn xã, thiếu sức thuyết phục.

Ho ten: Nguyễn Chung
Dia chi: TP Thanh Hóa
Email: NguyenKimChung060162@yahoo.com.vn

Theo tôi những vấn đề anh Vương Trí Nhàn đặt ra là rất cơ bản - đầy can đảm và đầy trách nhiệm của một nhà kiên cứu VHXH, tất cả chúng ta dù ở cương vị nào cũng phải xem xét một cách nghiêm túc .

Tôi đồng ý luận điểm "Điều kiện địa lý tự nhiên là yếu tố quyết định đầu tiên đến chủng tộc, trong đó có tính cách và thói quen" - đó chính là quan điểm duy vật xuyên suốt.

Thứ 2 là lịch sử các cuộc chiến tranh liên miên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình diễn biến hình thái tâm lý xã hội của dân tộc ta. Trong thư gửi học sinh nhân ngày khai trường Hồ chủ tịch đã chỉ ra rằng "Sau 80 năm trời nô lệ làm cho nước nhà yếu hèn...". Các nhà nghiên cứu triết học, kinh tế chính trị cũng như XHH cần nghiên cứu sâu các vấn đề này...

Ho ten: Hà Đức Quang
Dia chi: tổ 30 khu 3 Hà Trung - Hạ Long - Quảng Ninh
Email: ha_duc_qqq@yahoo.com

Thưa Quí Vị! Việc một cô diễn viên này, một nhân vật nọ có lối sống thiếu giáo dục là trách nhiệm của cơ quan chủ quản nhân sự đó. Vì họ đã có thiếu sớt trong khâu xét tuyển nhân viên vào làm việc trong cơ quan của mình mà dẫn đến việc bê bối đó. Cô diễn viên đó chẳng là cái gì, chẳng xứng đáng gì mà mang ra ví vào cả một dân tộc được!!! Theo tôi như thế là người đưa ra mệnh đề này đã quá coi thường một ý nghĩa hai chữ DÂN TỘC ....

Kính thư Hà Đức Quang.

Ho ten: Lương Xuân Miện
Dia chi: 3 An Duong Ha noi
Email: luongmienj@yahoo.com.vn

Tôi hoàn toàn chia sẽ và nhất trí với ý kiến hết sức sâu sắc trên đây của Ông Vương Trí Nhàn. Tôi mong các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đọc và nghiền ngẫm để có những đánh giá đúng về tiềm năng, thực lực của dântộc nhằm có những quyết sách phù hợp chứ không nên tự ve vuốt nhau để làm chậm quá trình phát triển của dân tộc.

Ho ten: Minh Tri
Dia chi: hoa binh
Email: minhtri9399@gmail.com

Qua bài viết phần 1 này tôi thấy việc soi gương để nhìn lại mình một cách khách quan thực không đơn giản. Các vấn đề bác nói khái quát trên rất đúng.Nếu không dũng cảm nhìn vào bản chất vấn đề thì chẳng thể thay đổi được gì. Bản thân tôi từ hơn 2 năm trước, khi đọc được thông tin bác sắp xuất bản cuốn sách nói về các thói xấu của người Việt ta, tôi vẫn có ý đợi, nhưng sao lâu quá. Liệu có thể xuất bản được không, mong bác nếu đọc được những lời này thì mail cho tôi, đặng còn biết để đọc. Cũng là một dịp để soi lại mình mà sống tốt hơn. Rất ủng hộ việc làm của bác và khâm phục sự dũng cảm. Thân ái!

Ho ten: Nguyen Đinh Giao
Email: nguyengiaobna3@yahoo.com
Thưa nhà văn,

Theo ông nói thì tình trạng "Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý, mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì".

Vậy, nếu không có chuyện này thì cái lối sống đó còn được chấp nhận tới bao giờ và như vậy bây giờ đưa ra vẫn còn sớm nhỉ? Hiện nay có rất nhiều người duy tình đó. Đài truyền hình VN là một ví dụ điển hình luôn.

Vấn đề này xin ông nghĩ lại "Một công cụ để một dân tộc nào đó tư duy, là chữ viết. Việc không hình thành cho được một thứ chữ viết riêng mang lại cho chúng ta rất nhiều hạn chế. Chính nó khuyếch đại thêm cái khía cạnh nông nổi tự phát mà chúng ta nói từ đầu".

Nếu vậy ông hỏi nước Mỹ họ có hình thành chữ viết riêng cho họ không? Nhà văn có nuôi ảo tưởng không? Nếu không thì tại sao không có những tác phẩm hiện thực. Hoặc khi có những tác phẩm thực tế quá thì lại bị kêu. Việc xã hội phản ứng với sự kiện trên chứng tỏ: Chúng ta có thể thoáng hơn về chuyện tình dục, nhưng nếu đó là chuyện riêng chỉ hai người biết. Còn việc qua tay nhiều người thì không được.

Ho ten: Chau Do
Dia chi: Ha Noi
Email: chaueconet@yahoo.com

Tôi thấy phân tích và lập luận của anh Nhàn có nhiều ý độc đáo, gợi mở, rất đáng được trao đổi sâu hơn. Đúng là dân tộc ta hết sức vĩ đại, vượt qua mọi kẻ thù xâm lăng để tồn tại, phát triển. Song, dường như chúng ta cũng có rất nhiều khiếm khuyết trong tính cách dân tộc, hệ quả của quá trình lịch sử đó. Tôi mong VietNamNet và báo chí trong nước mở diễn đàn về vấn đề này. Chúng ta cần phải nhìn lại mình kỹ càng hơn. Có thể cho tôi địa chỉ email của anh Nhàn được không? Xin cảm ơn. Châu.

Ho ten:
Dia chi:

Đọc bài của chú cháu xin có một số ý kiến sau đây.

1. Dư luận họ có quan tâm tới đời sống Thùy Linh hay không, cháu nghĩ một diễn viên nổi tiếng bị như vậy, thì tò mò là hiển nhiên mà thôi. Ở các nước duy lý của Âu Châu, họ còn săn Scandal của diễn viên khủng khiếp hơn chúng ta. Dư luận vẫn phải âm ĩ vì điều cốt lõi không phải là Thùy Linh, mà là Vàng Anh, một hình tượng giáo dục bị bôi xấu. Vấn đề bây giờ là, làm sao hạn chế tác động của sự đổ vỡ của hình tượng Vàng Anh đối với các em học sinh. Các bậc cha mẹ phải làm thế nào đối với con cái khi chúng hỏi về Vàng Anh, các nhà giáo dục phải làm gì? Và các đài truyền hình làm gì, các học giả sẽ giải thích cho chúng hiểu cái gì đúng, cái gì sai.?

2. “Khối tự phát khổng lồ” của chú chẳng có gì mới, nói tới Việt Nam thì là như vậy thôi. Có điều chú nói “Lối sống thác loạn của một bộ phận giới trẻ không phải bây giờ mới có. Chờ nó được đưa ra sân chơi công cộng, mới nảy sinh "làn sóng" chú ý, mổ xẻ, lên án nó thì muộn quá rồi còn gì” là không hoàn toàn chính xác. Các bạn cháu được một lần tranh luận thêm về chuẩn mực đạo đức, về đạo đức báo chí, và không có gì là quá muộn hết. Nhà trường của chúng ta đang dần đưa giáo dục giới tính vào giảng dạy, Vàng Anh cũng là một chương trình giáo dục, đó là những nổ lực. Và các nhà giáo dục, báo chí, các học giả sẽ hướng dẫn dư luận tiếp theo như thế nào, hay là cứ để lửa rơm như thế.

3. “Lẽ ra với một thái độ kiên trì và bình tĩnh, chúng ta phải mang ra bàn bạc từ lâu, vừa bàn vừa lắng nghe và chờ đợi. Cả buông xuôi lẫn nóng vội ở đây đều vô nghĩa, nếu không muốn nói là có hại”. Cháu đồng ý với chú điều này, nhưng cháu không hiểu mang ra bàn bạc, lắng nghe, chờ đợi thì phải làm như thế nào, và làm được gì. Và điều cuối cùng, chú có hiểu dư luận đang nói gì và muốn gì không?

Ho ten:
Dia chi:

"Phần tôi, tôi cho rằng chỉ nên nói đặc điểm người Việt là tính tự phát rất lớn, thường là những cơn xúc cảm bùng lên, song không trải qua những suy ngẫm nên sẽ qua đi nhanh".

Ông cũng là một kẻ tự phát. Ông lấy hiện tượng để kết luận. Nhưng từ kết luận của ông đưa ra, chỉ giải thích được 1 hiện tượng này mà thôi.

Vì nếu tự phát thì người Việt sẽ không còn tồn tại đến nay. Lịch sử còn đó, ông có dẫn chứng được không?

Còn không suy ngẫm, ít nghiên cứu - Đó phải chăng là một nhược điểm của dân tộc. Thực ra đây là một khiếm khuyết của sự phát triển mà những người lớn phải chịu trách nhiệm chính.

Ho ten: Le The Tiem
Dia chi: HN

Email: muadongbaodaytro@yahoo.com.vn

Hội nhập giúp chúng ta nhìn rõ hơn

Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn đã phần nào chỉ ra cho chúng ta thấy đặc tính thật sự của dân tộc Việt là như thế nào. Đây là những lời nhận xét hết sức thành thực và mang giá trị thực tiễn rất lớn đối với xã hội chúng ta trong thời đại toàn cầu hóa diễn ra hết sức nhanh chóng.

Bấy lâu nay chúng ta hay tự ngợi khen bản thân mình, khi người nước ngoài có chút khen ngợi xã giao với chúng ta là lập tức trích dẫn sôi nổi để đưa lên các phương tiện truyền thông, còn đối mặt với sự chỉ trích hay phê phán là lập tức chúng ta không quan tâm tới. Liệu cách hành xử như vậy có làm cho chúng ta tiến bộ lên không, hay lại nuôi dưỡng tâm lý thỏa mãn không chịu phấn đấu.

Bởi vậy, nhìn thẳng vào sự thật để tự biết mình là ai, ở vị trí nào trên thế giới là điều quan trọng, nếu thật sự biết mình, biết người, biết điểm mạnh để phát huy, biết điểm yếu để khắc phục thì mới là cách hay để chúng ta tiến bộ.

Ho ten: Nguyễn Văn Tư
Dia chi: 230/2 Cà Mau

Dân tộc Việt có ảo tưởng và là một khối tự phát khổng lồ?

Tôi không hoàn toàn đồng ý đối với nhận định của Ông Vương Trí Nhàn. Tôi cũng chỉ nêu một vài vấn đề mà Ông Vương cho là “đơn giản” nhất. Ví dụ về Đạo Phật ở Việt Nam.

Việc Ông Vương cho rằng "Với đạo Phật, chúng ta hiểu biết lơ mơ. Về tất cả các lý thuyết, hầu như không nghiên cứu gì cả, chỉ toàn là truyền miệng với nhau, trong tu thì chỉ "thiền", "ngộ", tức là ngồi để tự nhiên nghĩ ra cái gì đấy. Tôi nghĩ lối sống này làm nghèo chúng ta đi, từ sự trống vắng, kết quả thu được cũng chẳng gì hơn cũng là trống vắng" chỉ đơn giản là cách nghĩ và khả năng nghĩ của riêng của ông Nhàn.

Trên thực tế hoàn toàn khác như vậy. Phật Giáo đã có một quá trình du nhập và phát triển trong mối tương quan tương đồng với văn hoá Việt, tạo nên một nội dung mới với đậm đà bản sắc Việt. Ngay cả Thiền trong Phật Giáo Việt Nam cũng vậy. Vì thế, Tuệ Trung Thượng Sĩ là một ví dụ. Truyền thống Việt còn thể hiện đậm nét ngay trong những tông giáo khác, tạo nét đặc thù như Thiên chúa giáo, Hồi giáo ở Việt Nam.

Ví dụ thứ hai là việc Ông Vương cho rằng "Dân tộc Việt là một khối tự phát khổng lồ" và "nuôi ảo tưởng". Chúng tôi thầm nghĩ liệu Ông Vương đã dụng tâm nghiên cứu kỹ lưỡng chưa khi phát biểu nhận định này? "Tự phát" và "ảo tưởng" thì làm sao chúng ta có thể chiến thắng các cỗ máy chiến tranh khổng lồ, có kỹ luật chặt chẽ, không phải một lần mà nhiều lần, từ thời Trần chiến thắng quân Nguyên cho đến thời đại Hồ Chí Minh chiến thắng ba đế quốc to là Nhật, Pháp, Mỹ?

Tự phát" và "ảo tưởng" thì làm sao chúng ta có thể chiến thắng được sức mạnh của thiên nhiên với không biết bao nhiêu thiên tai, bão lũ,..để bảo tồn và phát triển dân tộc, đất nước. Vài lời thô mộc của một kẻ thường, xin được góp ý để trước là tôn vinh các giá trị truyền thống ngàn năm văn hiến, sau là xoá dần những hủ lậu của ngày xưa. Kính mong mọi người cùng góp ý.

20/10/2007VietNamNet

Vương Trí Nhàn - "mèo hoang" giữa làng văn



Nhà phê bình Vương Trí Nhàn.
Tên là "Trí Nhàn" nhưng ông lại chọn một cái nghề chẳng nhàn trí: phê bình văn học. Ông có văn phong và cách đặt vấn đề thẳng thắn, công tâm và mới mẻ. Ông vừa cho ra mắt tập chân dung văn học "Cây bút - đời người". Dưới đây là tâm sự của ông.

- Điều gì khiến ông viết cuốn chân dung văn học này?

- May mắn trong nghề làm phê bình của tôi là luôn được sống và làm việc gần các nhà văn, nhà thơ, đủ để bị thôi thúc bởi ý nghĩ: bên cạnh các bài thơ, cuốn truyện thì các nhà văn còn thường xuyên sáng tác ra một tác phẩm độc đáo khác, đấy chính là tính cách của họ. Người đời đôi khi thành kiến, đám người viết văn chẳng qua chỉ là một bọn dông dài. Trong khi, một số đồng nghiệp của tôi (nhất là các nhà giáo) lại có xu hướng lý tưởng hoá những người viết, xem cây viết nào cũng tâm huyết đầy mình. Phần tôi, tôi nghĩ, ngoài đời có bao nhiêu kiểu người thì trong văn chương cũng có bấy nhiêu kiểu người cầm bút, có thánh thần lẫn ma quỷ. Và trừ một số tài năng sáng chói, thì phần lớn người cầm bút cũng có cả những chỗ tầm thường lẫn chỗ cao quý. Rồi điều quan trọng hơn, mỗi con người có một tư cách, một số phận. Không phải chỉ những tài năng lớn mới có một cuộc đời thú vị, những nhà văn tạm gọi là bình thường cũng có cách phấn đấu riêng, những bi kịch riêng. Những cuộc làm người của họ trong văn chương cũng rất đáng ghi chép lại...

- Ông tự đánh giá về tác phẩm của mình như thế nào?


- Sách của tôi có lẽ không phải là thứ sách phê bình để dùng trong nhà trường, không thể là một thứ văn mẫu để học sinh có thể dùng vào thi đại học. Nó như là thứ thuốc cần để xa tầm tay trẻ em. Bạn đọc lý tưởng của tôi là những người không bằng lòng với cuộc sống, muốn cắt nghĩa một phần cuộc sống thông qua việc tìm hiểu thế giới văn nghệ sĩ. Trong đó, có thể có cả thuốc bổ lẫn thuốc kháng sinh. Tuy nhiên, tôi không nghĩ là đã có một gáo nước lạnh bị giội lên bất kỳ ai ở đây. Tôi đã chân thực với những điều mình thấy, nhưng không vì thế mà dám nghĩ rằng, tôi chắc chắn đúng và chỉ có mỗi mình đúng. Có một câu của Ehrenburg mà tôi thấy tâm đắc: "Trí nhớ người ta giống như ánh đèn pha của một chiếc xe đang đi trong đêm, khi thì nó cho thấy hình ảnh một gốc cây, khi thì một trạm gác, khi thì lại là một con người".

- Ông nghĩ gì khi có ý kiến cho rằng ông là một người không thật sự cởi mở và quảng giao?

- Tôi đã và có thể vẫn đang còn là người sống hơi đơn độc như một thứ chầu rìa, một thứ mèo hoang giữa làng văn... Để yêu nhau, theo tôi, đôi khi nên đứng tách ra một chút để tưởng tượng và suy ngẫm về nhau.
(Theo Lao Động)

VỤ VNN

Tri thức hiện đại:
Không được tạo
“dịch nói xấu người Việt”
Thứ sáu, 2/11/2007, 07:00 GMT+7

Người ta thường nói, đoán cái xấu thì dễ, đoán cái tốt mới khó. Do điều kiện lịch sử, đời sống hiện đại của chúng ta đã sinh ra một lớp người lấy chuyện đoán “cái xấu” ra để làm lớp áo tri thức của mình. Thậm chí có những người còn đi xa hơn bằng cách “làm yếu ớt đi, làm nhạt nhòa đi” chính nguồn cội của mình để mưu danh với thiên hạ.

Mấy năm gần đây, trên báo chí xuất hiện mục bàn về “Thói hư, tật xấu của người Việt”, do ông Vương Trí Nhàn thực hiện. Để cho bạn đọc hiểu rõ hơn thực chất của chuyên mục này, phóng viên VieTimes đã trò chuyện cùng với ông Vương Trí Nhàn. Khi phóng viên liên lạc, ông Vương Trí Nhàn rất hồ hởi về những câu hỏi sẽ “phản biện chính xác” những gì ông đã nói. Nhưng tiếc thay, khi cuộc phỏng vấn diễn ra giữa chừng, chính xác là 24 phút, ông Vương Trí Nhàn đã tự ý bỏ về với một câu hỏi rất nghiêm túc và không kém phần nghiêm trọng về văn hóa dân tộc Việt…

Phóng viên (PV) : Mục “Thói hư tật xấu” ông đã làm trong thời gian bao lâu?

Ông Vương Trí Nhàn (VTN): Tôi làm được vài năm theo hai giai đoạn. Đầu tiên tôi sưu tầm của người khác vì nếu tôi viết sẽ không ai đăng. Nên tôi lấy ngay những người tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Chu Chinh, Huỳnh Thúc Kháng... thì người đọc mới chịu. Ông Vương Trí Nhàn viết thì không ai chịu.

PV: Xuất phát từ ý tưởng nào mà ông làm chuyên mục này?

VTN: Trong nghề viết văn tôi hay nhìn ra khuyết điểm của văn chương. Trần Đăng Khoa nói phải “tâm địa xấu xa” mới nhận xét được thói hư tật xấu của người khác như thế. Tôi nói về thói hư tật xấu của người khác để giúp người ta tiến lên.

Sau đó tôi thấy mình phải viết về tật hư thói xấu của dân tộc nói chung. Tôi chọn việc trích dẫn của người khác. Mục của tôi là thói hư tật xấu người Việt dưới con mắt trí thức Việt Nam đầu thế kỷ 20.

PV: Ông thường trích dẫn của ai?

VTN: Nhiều lắm. Ví dụ cụ Phan Bội Châu không chỉ có yêu nước mà đã rất sớm nhận ra thói hư tật xấu của người Việt. Khi sang Nhật, cụ nhờ phu xe đưa đến đâu họ cũng đưa đi, hỏi địa chỉ dẫn tận nơi mà không lấy tiền. Nhưng ở Việt Nam thì không tìm ra một ông phu xe như vậy. Có khi còn ăn cắp, lấy thêm của mình.

PV: Ông có nghĩ đó chỉ là ảnh hưởng nhất thời của xã hội lúc đó, còn tính cách nền tảng của người Việt thì khác?

VTN: Không, tôi thấy việc này lặp lại nhiều lắm. Số lượng người viết về thói hư tật xấu mà chúng ta vẫn mắc phải: giả dối, sống vô trách nhiệm, vụ lợi, chỉ quan tâm đến lợi ích của mình

PV: Trong nhân loại nói chung, dân tộc nào mà chẳng có những thói hư tật xấu ấy?

VTN: Dân tộc mình nhiều lắm chứ! Khi nói đến tham nhũng, vợ tôi vẫn bảo: ”Ôi giời, nước nào chả có tham nhũng”, nhưng mình có ti tỉ cái tham nhũng.

PV: Căn cứ vào đâu ông nói Việt Nam nhiều tham nhũng hơn các nước khác?

VTN: Thì cứ giở báo chí ra là thấy nhan nhản tham nhũng. Các tòa án xử không xuể. Ông Lê Đăng Doanh từng nhận xét chỉ 5% lộ ra bề mặt, còn 95% vẫn trong bóng tối. Việt Nam xếp loại tham nhũng rất cao, đứng đầu thế giới.

PV: Đó là những kẻ đứng ngoài Việt Nam để xếp hạng. Để đánh giá một đất nước, một xã hội thì phải thấu hiểu, phải trải qua chính những vấn nạn mà xã hội ấy gặp phải. Vậy nên không thể nói những bảng đánh giá đó là chính xác, coi như một chân lý để khẳng định?

VTN: Tôi không đồng ý với bạn điều đó. Chúng ta hay nói chỉ ta mới đánh giá được ta. Nhưng chúng ta rất sai. Người nước ngoài thừa sức đánh giá chúng ta. “Chỉ trong chăn mới biết chăn có rận” là sai!

PV: Những người nước ngoài sống trong một thể chế chính trị khác, đời sống văn hóa khác. Tất cả mọi thứ đều khác Việt Nam. Một mặt nào đó, người ta đứng ở thế giới khác thì không thể đánh giá khách quan về một thế giới khác. Ví như một con cá chỉ bơi trong nước thì làm sao biết loài chim bay trên trời như thế nào?

VTN: Bạn đang cường điệu hóa sự khác nhau giữa các dân tộc. Các dân tộc có những giá trị nhân bản nói chung. Ăn cắp thì không thể làm hàng tốt được. Tôi thấy trong bảng thống kê thì Việt Nam xếp hạng hàng đầu. Và tôi tin đó là đúng, còn bạn không tin thì tùy bạn.

PV: Trong tất cả những người mà ông đã lấy tác phẩm của họ để trích dẫn về thói hư tật xấu, ông có cảm thấy có người nào không xứng đáng là một nhà trí thức không?

VTN: Điều quan trọng không phải là đánh giá người ta ở con người mà đánh giá chất lượng lời người ta. Khổng Tử nói: Không vì người mà bỏ lời. Có thể trong đời sống có vấn đề nhưng người ta nói đúng.

PV: Nhưng có một giá trị chung là "Người thơ phong vận như thơ ấy”. Lòng người như thế nào thì sẽ tràn ra ngoài miệng như thế đó.

VTN: Không, đó chỉ là một ý thôi

PV: Ví dụ như lời yêu thì ai cũng nói được nhưng ai nói với ta thì mới là quan trọng chứ!

VTN: Đó là một nhận xét. Ta có lối là ông A nói thiêng còn ông B nói không thiêng. Một người ăn cắp chỉ anh kia là ăn cắp thì anh ta vẫn nói đúng dù anh ta là thằng ăn cắp.

PV: Tôi muốn nói rằng những nguồn trích dẫn chỉ đáng tin khi tác giả của chúng đáng tin thôi.

VTN: Chả ai là không xứng đáng với lời của mình. Lý luận của bạn cũng là sai nốt.

PV: Ông vừa nói có những người không tốt nhưng lời nói của họ tốt đúng không. Nhưng “Y phục" phải "xứng kỳ đức”. Chúng ta ở một vị trí xã hội, tầm văn hóa như thế nào thì mới có quyền phát ngôn ở vị trí xã hội như thế, tầm văn hóa như thế.

VTN: Sự đánh giá một người không có chữ “chết”. Bảo người đó là xấu không có nghĩa tất cả con người họ xấu. Họ vẫn có phần tốt của họ. Có những người rất tốt nhưng vẫn nói ra những phần xấu.

PV: Những trích dẫn của ông hay lấy nguồn từ Nam Phong, Tiểu thuyết thứ Bảy… Ông có tin những tờ báo đó không?

VTN: Sao lại không tin được?

PV: Thời “Nam Phong”, “Tiểu thuyết thứ Bảy”… cũng chỉ là thời kỳ sơ khai của tiếng Việt chứ không phải là cái gì tinh túy, sâu sắc, uyên thâm cả. Nó được ca ngợi vì việc dùng chữ Quốc ngữ bấy giờ là biểu hiện cho tinh thần độc lập của người Việt đối với văn hóa xâm lăng của thực dân Pháp. Ông có nghĩ thế không?

VTN: Đấy là bạn nghĩ, tôi không nghĩ thế. Ông Vũ Ngọc Phan nói với tôi Nam Phong có đóng góp rất lớn cho tiếng Việt.

PV: Thời “Nam Phong”, “Thơ Mới”… sử dụng tiếng Việt chính là thể hiện lòng yêu nước. Xét vào điều kiện lịch sử thời đó thì nó phù hợp. Nhưng nó không chứa toàn thể chân lý của dân tộc trong đó.

VTN: Trong bất cứ chân lý của lịch sử nào cũng chứa chân lý vĩnh viễn.

PV: Sẽ có nhiều người ngạc nhiên vì sao ông lại coi những trích dẫn đó là mẫu mực?

VTN: Tôi không ngạc nhiên. Vì thế, với bạn có thể Nam Phong là không có giá trị nhưng tôi, với tư cách là một nhà nghiên cứu văn học, thì Nam Phong có đóng góp với lịch sử văn học nước nhà.

PV: Nếu như một dân tộc có quá nhiều tật xấu thì nó đã bị đồng hóa, tan biến từ rất lâu chứ không thể có một dân tộc Việt như ngày hôm nay...


VTN: Có rất nhiều cách tồn tại. Có tồn tại lay lắt, khổ sở, phá hoại. Có cách tồn tại cao đẹp.

PV: Theo ông, thế nào là cách tồn tại cao đẹp?

VTN: Ví dụ làm ra nhiều sản phẩm, có nhiều phát minh sáng kiến, con người sống tử tế, yêu thương, giúp đỡ, không vụ lợi… Đó là cách sống tốt đẹp.

PV: Ông không nhìn thấy những điều tốt đẹp đó trong cuộc sống hôm nay?

VTN: Không, quá ít và những cái dở ngày càng tăng lên.

PV: Phải chăng ông đọc nhiều cuốn sách cổ quá mà quên tìm hiểu những hình tượng tốt tương đối nhiều trong cuộc sống hôm nay?

VTN: Những hình tượng ấy không đáng tin tưởng.

PV: Tôi có thể kể cho ông một hình tượng rất đơn giản: Một phụ nữ ở Quảng Ninh 60 tuổi, về hưu, sống một mình. Bà lần lượt nhận những đứa trẻ bị nhiễm HIV về nuôi. Bé này mất đi lại nhận bé khác. Theo thói bình thường thì lẽ ra bà phải nuôi một đứa trẻ lành lặn để làm nơi nương tựa khi tuổi già. Đồng lương phải tiết kiệm để dùng khi ốm đau nhưng bà đã sẵn sàng dùng đồng tiền đó nuôi những đứa trẻ mà biết chắc chắn 1, 2 năm sau chúng sẽ mất. Vậy ông nhận xét tính cách người Việt như thế nào trong hình tượng này?

VTN: Những trường hợp này ngày càng ít đi so với các thói xấu đầy rẫy trong xã hội.

PV: Đời sống thông tin hiện đại có xu hướng cường điệu hóa mặt xấu nhiều hơn những mặt tốt. Đó là một vấn nạn khi mà báo chí chạy theo thị trường một cách quá đà mà quên lý tưởng của mình. Có thể ông đã tiếp cận thông tin tiêu cực của báo chí nhiều quá phải không?

VTN: Tôi đọc báo thì thấy là hôm nay bắt người này, người kia... rất nhiều chuyện. Tôi cho đấy là bức tranh của thực tế. Còn nếu bạn coi đó là do báo chí cường điệu thì tùy bạn. Tôi không bắt bạn phải theo tôi và tôi cũng không việc gì phải theo bạn

PV: Ngoài những cái xấu của người Việt ông đã viết, ông thấy người Việt có những điều tốt gì?

VTN: Nhiều lắm chứ. Ví dụ lòng khát khao sống, làm sao để khá hơn, qua những lúc khốn khó trở thành người tốt giúp đỡ lẫn nhau…

PV: Tại sao ông không làm thêm “thói hay tính tốt” của người Việt?

VTN: Những điều này người ta đã làm rất nhiều? Cả giới báo chí đã làm rồi. Có người nào làm như tôi đâu, chỉ một mình tôi làm (trích dẫn những lời nói về thói hư tật xấu của người Việt).

PV: Những trích dẫn về thói hư tật xấu của người Việt được lấy rải rác trong nhiều bài của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, hay nhiều tác giả khác... Lẽ thường, một câu bao giờ cũng phải phụ thuộc vào cái tổng thể của toàn bài. Bây giờ cắt một câu ra đứng độc lập, liệu làm như vậy ý nghĩa của văn bản có bị biến đổi ít nhiều?

VTN: Tôi hiểu chính xác và tôi cho rằng đó chính là ý của cụ Phan.

PV: Tại sao ông lại khẳng định như vậy?

VTN: Rõ ràng trong bài các cụ nói rành rành như thế.

PV: Nói đơn giản như thế này: Nếu chúng ta chỉ đứng ở ngoài nhìn vào cửa kính thấy người cha đánh một đứa con thì chúng ta sẽ nghĩ người cha sao độc ác đến vậy. Nhưng nếu theo dõi câu chuyện từ đầu, có thể đứa con rất hỗn láo và người cha đang buộc phải đánh con mình với nỗi đau đớn hiện lên trên nét mặt. Vậy ông nghĩ thế nào khi tách một câu khỏi toàn cảnh văn bản như vậy?

VTN: Tôi chỉ tách một câu của một người còn tôi không đánh giá toàn bộ người đó. Còn nếu ai hỏi tôi là dân tộc Việt Nam còn tính tốt không tôi trả lời còn cái tốt…

PV: Ý chúng tôi muốn hỏi là tách một câu ra khỏi văn bản thì có làm thay đổi nghĩa của nó đi không?

VTN: Không thể không tách. Còn ai muốn đọc toàn bộ văn bản thì xin mời. Không thay đổi gì hết. Đó vẫn là Phan Bội Châu. Tôi vẫn khẳng định thế còn bạn khẳng định khác thì tùy bạn.

PV: Nhiều nhà phê bình Việt Nam đã mắc lỗi khi cắt, xén, lắp ghép các câu, các ý và làm thay đổi văn bản gốc quá nhiều. Việc trích dẫn riêng lẻ như vậy chắc chắn sẽ làm sai lệch ý nghĩa của văn bản.

VTN: Không phải các nhà phê bình có lỗi mà tôi có lỗi. Bạn không thể nói như thế được. Tôi không có lỗi gì trong chuyện này.

PV: Ông có thấy bao giờ “rùng mình” khi làm công việc trích dẫn nhiều thói hư tật xấu của người Việt chưa?

VTN: Càng đọc tôi càng cảm thấy hóa ra những điều mình cảm thấy thì người xưa đã nói rồi. Và trong tất cả những tài liệu cũ có bao nhiêu điều mình chưa biết. Và tôi mong rằng nhiều bạn đọc sẽ biết để sống tốt hơn.

PV: Trong những thói hư tật xấu chung của người Việt mà ông đã trích dẫn, ông cảm thấy bản thân mình có bao nhiêu phần trăm thói hư tật xấu trong đó?

VTN: Tôi có nhưng tôi không trả lời câu hỏi này. Tôi không nói với bạn và bạn không có quyền hỏi tôi như vậy.

PV: Đây là một cuộc phỏng vấn. Và với tư cách là một người con của dân tộc Việt, ông cảm thấy mình có bao nhiêu tính xấu trong đó?

VTN: Tôi có quyền từ chối!

PV: Vậy ông có cho con cái mình đọc những thói hư tật xấu đó để chúng tránh?

VTN: Có chứ. Nhiều người nói với tôi là anh làm sách đi để con cái họ cũng đọc được.

PV: Vậy con cái ông có tránh được không?

VTN: Con cái tránh được hay không lại là chuyện khác. Bệnh không thể chữa ngay lập tức được mà phải có thuốc đúng và có thời gian. Vì bệnh đó là thâm căn cố đế.

PV: Vậy phương thuốc đúng để chữa bệnh thói hư tật xấu của người Việt là gì, thưa ông?

VTN: Trước tiên phải tự nhận thức được mình. Tôi chỉ nêu lên được người xưa đã nói như thế. Còn chúng ta phải nghĩ xem mình có đúng như thế hay không. Nếu xấu thì sửa. Điều này phụ thuộc vào nhận thức của người “uống thuốc”.

PV: Vậy điều gì quan trọng nhất cần làm ngay trong cuộc sống này để người Việt sống tốt hơn?

VTN: Cái lớn nhất là chúng ta phải tự nhận thức chúng ta là người như thế nào. Sau đó chúng ta mới bàn đến chuyện khác. Nhận thức quan trọng nhất vì nhận thức đúng thì mới hành động đúng.

PV: Cụ thể là nhận thức cái gì, thưa ông?

VTN: Nhận thức mình là người thế nào? Mình đang làm gì? Trong thế giới này mình là gì?

PV: Chẳng nhẽ dân tộc Việt đã có hàng nghìn năm lịch sử lại không thể nhận thức được mình?

VTN: Tôi thấy dân dộc Việt chưa nhận thức được mình.

PV: Nếu không nhận thức được mình thì chúng ta sẽ không có những triều đại rực rỡ như Lý, Trần, Lê, sẽ không có những anh hùng hào kiệt, các vị anh quân của các triều đại. Nếu không nhận thức được thì sẽ không có các tác phẩm nghệ thuật kinh điển. Nếu không nhận thức được chúng ta sẽ không có cuộc sống ngày hôm nay. Nếu không nhận thức được thì dân tộc Việt không thể có một nền văn hóa như vậy. Chúng ta cần đưa ra một trường hợp cụ thể. Theo ông, Nguyễn Du có nhận thức được mình không khi viết ra một tác phẩm như Truyện Kiều?

VTN: Tùy bạn, bạn cứ nói những điều này trên mặt báo. Một người như Nguyễn Du nhận thức được không có nghĩa là cả dân tộc nhận thức được.

PV: Ông nói sao? Một thiên tài như Nguyễn Du cũng không biểu hiện cho nhận thức của dân tộc sao?

VTN: Không có nghĩa là như thế. Tôi sẽ không gặp lại bạn nữa. Tôi đi về đây. Tôi không thích kiểu nói chuyện này.

Nhóm phóng viên (VieTimes) thực hiện
..............................................................................................................................................................................
Vương Trí Nhàn
Hội nhà văn VN
HÀ Nội ngày 3-11-07

K/g ông Nguyễn Anh Tuấn
Tổng biên tập báo điện tử VietnamNet

Trích yếu :
Về việc đăng bài phỏng vấn người viết thư
trên VNN, chuyên trang Vietimes ngày 2-11-07
Thưa ông
Tôi là Vương Trí Nhàn, nhà phê bình văn học, hội viên Hội nhà văn VN.
Xin phép được trình bày với ông một việc như sau :
Gần đây tôi có nghiên cứu sâu về các vấn đề văn hóa. Một trong những đề tài tôi theo đuổi là tiếp tục công việc của các nhà nghiên cứu đi trước như Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Hạo, tìm hiểu về thói hư tật xấu người Việt.
Trên VietnamNet chuyên trang Netlife tháng 9-07 và chuyên đề giáo dục đầu tháng 10-07, đã có hai bài phỏng vấn tôi chung quanh vấn đề này, với sự đồng tình và chia sẻ của các phóng viên, biên tập viên. Tôi rất biết ơn VNN trong việc này .

Tới sáng 1-11 , có hai phóng viên Vietimes đến gặp tôi và nói muốn tiếp tục trao đổi về công trình nghiên cứu tôi đang theo đuổi.
Trước khi gặp nhau, nữ biên tập viên cũng nói rõ là sẽ phản bác tôi. Tôi cũng thấy là một dịp thú vị nên nhận lời.
Nhưng trong quá trình trao đổi, nam phóng viên ( mà tôi không biết tên ) đưa ra những câu hỏi đầy khiêu khích. Trong hoàn cảnh của cuộc đối thoại, tôi đã nói những điều mà trong đầu óc tôi mới hình thành và chưa phải là suy nghĩ kỹ.
Được độ 20 phút thì tôi thấy người đối thoại với mình quá thiếu thiện chí, giữa anh với tôi không có tiếng nói chung nên tôi đã tự ý dừng lại cuộc đối thoại.
Theo tôi hiểu một khi cuộc đối thoại đã bị đơn phương dừng lại, tức là nó không có giá trị và người phỏng vấn không có quyền đưa nó ra trước công luận.
Thế nhưng tới trưa 2-11 , bài phỏng vấn đã được tung lên trên chuyên trang Vietimes, sau đó gợi lên rất nhiều phản cảm trong người đọc. Phản cảm với tôi , vì những lời tôi buột miệng nói đó . Và phản cảm với cách làm của phóng viên Vietimes.

Thưa ông Tổng biên tập
Là một nhà báo, chắc ông hiểu trước một vấn đề gì đó, giữa những gì một người buột miệng nói ra và những ý kiến chính thức của người đó trước công luận, bao giờ cũng có sự phân biệt.
Quy chế về phỏng vấn trên báo chí đã có điều khoản nói rõ người được phỏng vấn phải xem lại những điều đã nói trong đối thoại, và nếu người đó không đồng ý thì không ai có quyền công bố trên mặt báo.
Bởi vậy cho phép tôi trân trọng đề nghị ông :
1/ Có thông báo nói rõ là những lời tôi nói trong khi chuyện trò chưa được tôi xem lại và do đó tôi không chịu trách nhiệm về chúng. Mọi sự phê phán tôi dựa trên những gì được ghi lại đó là không có giá trị.
2/ Hủy bài viết để những lời tôi nói lúc đang rối trí không trở thành cái cớ cho những người khác lợi dụng.

Thưa ông
Trở lên là những đề đạt chính thức của tôi với Tổng biên tập một tờ báo chịu trách nhiệm cuối cùng về tất cả những gì đưa trên báo. Chiếu theo tinh thần luật báo chí của Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam( tôi đang có trong tay Quy chế phỏng vấn trên báo chí ghi ngày 1/7/2006 ), tôi nghĩ những yêu cầu của tôi là chính đáng và tôi có quyền theo đuổi những yêu cầu này tới cùng ; nếu những yêu cầu trên không được thực hiện, tôi đã nghĩ tới một vụ kiện lên các cơ quan có thẩm quyền.

Bây giờ cho phép tôi nói chuyện với ông như một người làm báo ở VN trong giai đoạn cực kỳ khó khăn này.
Xưa nay tôi vẫn kính trọng những cố gắng của VietnamNet trong việc thúc đẩy sự nghiệp thông tin trong nước. Tôi nhớ hồi còn sống nhà báo lớn Phạm Xuân Ẩn cũng rất có cảm tình với VNN và điều đó làm cho chúng tôi thêm yêu và tin tưởng VNN hơn.
Tất cả những thành tựu đó không thể tách rời những nỗ lực của chính ông với tư cách Tổng biên tập.
Tôi tin rằng là người làm báo có kinh nghiệm, ông rất thông cảm với những rắc rối phiền phức trong công việc khó khăn mà những người viết hôm nay phải chấp nhận.
Tôi tin rằng những đề đạt của tôi trong thư này sẽ được ông thông cảm và giúp cho.
Tự trong thâm tâm, ngay lúc này đây, tôi đã muốn bày tỏ lới biết ơn chân thành với ông.

Kính chúc ông sức khỏe và đạt nhiều thành tự trong công việc.
Kính
Vương Trí Nhàn
Địa chỉ : vuongtrinhan@vnn.vn

.............................................................................................................................................................................

Mấy lời trần tình

Vừa qua, một nam phóng viên Vietimes đã đến phỏng vấn tôi mà không xưng danh, trong buổi trò chuyện toàn giọng khiêu khích. Tôi đã dừng cuộc phỏng vấn lại giữa chừng. Vây mà sau đó, những câu trả lời của tôi lại đã được đưa lên mạng VietnamNet với những lời bình luận đầy ác ý.
Sau thư phản đối của tôi , cuối cùng ngày 4-11 , ông Tổng Biên tập VNN đã ngỏ lời xin lỗi tôi về cách làm việc của phóng viên .
Qua VNN , một lần nữa tôi muốn trần tình trước dư luận và xin không phải chịu trách nhiệm về những gì nói lúc đang bối rối đó.
Còn về công việc tôi đã làm – những ý kiến trò chuyện với mọi người, các bài sưu tầm bài viết đã in ở đây đó --, xin được nói rõ mấy điều
1/ Tôi cho rằng nhất định trước sau không thể không đặt vấn đề tự nhận thức dân tộc .
Trong quá trình tự nhận thức đó, không thể thiếu việc tìm hiểu thói hư tật xấu.
Khoảng 1968-1972 , cùng sống ở gác hai nhà số 4 Lý Nam Đế, tôi được Nguyễn Minh Châu chia sẻ nhiều suy nghĩ khi sáng tác . Tôi còn được ông cho đọc vài đoạn nhật ký nữa . Đây là một trong những đoạn Nguyễn Minh Châu ghi trong sổ tay hồi viết Dấu chân người lính : “Trong cuộc chiến đấu để giành lại đất nước với kẻ thù bên ngoài hai mươi năm nay, ta rèn cho dân tộc ta bao nhiêu đức tính tốt đẹp như lòng dũng cảm, sự xả thân vì sự nghiệp của Tổ quốc. Nhưng bên cạnh đó, hai mươi năm nay không có thì giờ để nhìn ta một cách thật kỹ lưỡng. Phải chăng bên cạnh những đức tính tốt đẹp thì tính cơ hội, nịnh nọt, tham lam, ích kỷ, phản trắc ,vụ lợi còn được ẩn kín và đã có lúc ngấm ngầm phát triển đến mức gần như lộ liễu? Bây giờ ta phải chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc. Sau này, ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, làm sao cho con người ngày một tốt đẹp. Chính cuộc chiến đấu ấy mới lâu dài”. Tôi đã trích dẫn đoạn nhật ký này trong một bài viết về Nguyễn Minh Châu mang tên Sự dũng cảm rất điềm đạm .( Bài này đã in trong tập Cánh bướm và đóa hướng dương bản in ở NXB Phụ Nữ 2006 tr 326).
Từ thời điểm đó, tôi đã nung nấu để có dịp là viết về thói hư tật xấu của chúng ta, trong mỗi người chúng ta.
Vì đã có nhiều người nói về những mặt hay mặt tốt của cộng đồng, nên tôi đi sâu hơn kỹ hơn vào phần thói hư tật xấu. Tôi nghĩ rằng trong số hàng ngàn hàng vạn người đã viết về cộng đồng nói chung, có một vài người đi sâu vào chuyên đề “ thói hư tật xấu” là cần thiết. Những giả thiết chúng tôi nêu ra sẽ được các đồng nghiệp khác chia sẻ, đào sâu thêm, hay phản biện, bác bỏ trong các trao đổi thảo luận. Và tất cả các kết quả nghiên cứu – cả mặt tốt lẫn mặt xấu -- , sau khi được kiểm nghiệm nhất trí, sẽ cùng tác động tới dư luận như một thực thể tổng hợp.
2/ Trong các bài viết vừa qua, tôi chỉ trình bày cái phương diện cụ thể mà tôi đã đi sâu tìm hiểu. Còn trong quá trình nghiên cứu, muốn được khoa học, tôi phải nhìn thói hư tật xấu trong toàn bộ tâm lý ứng xử của người mình nói chung. Trong “ phòng thí nghiệm cá nhân “ là sổ tay ghi chép riêng của tôi, tôi đã làm đúng như vậy.
Những phương diện tốt đẹp của người Việt, vẫn là tầng ngầm trong suy nghĩ của tôi. Khi trình bày các thói hư tật xấu, nhiều lần tôi đã nói rõ phần nào một sự thật : nhiều khi ở đây có sự chuyển hóa ; một thói xấu nào đó ban đầu vốn là một phản ứng cần thiết trước thực tế, chỉ vì bị đẩy lên quá đà và không có điều kiện sửa đổi mà nó thành mặt xấu.
3/ Khi viết , nhất là khi nói , có thể có một số chữ một số cách diễn tả , tôi dùng không thích hợp. Có những khi cách nói gây cảm tưởng vơ đũa cả nắm . Ai người có kinh nghiệm hẳn sẽ tha thứ cho tôi: nhiều khi phải say phải bốc phải nói quá lên một chút, thì mới tìm thấy hào hứng đi tiếp .
Lúc này đây, tôi đã nghĩ lại .Tôi đang đề cập tới những vấn đề nhạy cảm nên không được phép tự nhiên dễ dãi như vậy . Tôi tự hứa tới đây sẽ thận trọng hơn trong công việc .
4/ Nhìn toàn bộ, chỉ có thể nói là tôi viết về thói hư tật xấu của cộng đồng. Chụp cho tôi cũng như tất cả những ai chia sẻ suy nghĩ của tôi là nói xấu dân tộc là không đúng. Là con dân đất nước này, sao tôi lại có thể đứng ra làm cái việc bỉ ổi đó ?
5/Tôi không bao giờ tin rằng mình đã đi tới được những kết quả đúng đắn. Tôi sẵn sàng nghe những ý kiến ngược. Chính vì lý do đó mà khi một nữ phóng viên Vietimes gọi điện cho tôi, nói là muốn phản bác tôi, tôi đã nhận lời. Tôi tưởng qua việc trò chuyện với các bạn trẻ, tôi sẽ được dịp kiểm nghiệm lại nhận thức của mình. Ai ngờ…
Tuy nhiên, cho tới lúc này, tôi vẫn tha thiết mong các đồng nghiệp và bạn đọc tiếp tục trao đổi về các giả thiết mà tôi đã nêu. Một mình tôi thì làm được việc gì ? Cần có sự đóng góp của những người có kinh nghiệm sống nhiều hơn, đọc nhiều sách vở hơn, và có tầm nhìn xa rộng hơn.
Trong cuộc trao đổi này, tôi chỉ đề nghị một điều là chúng ta giữ lấy sự lương thiện của người làm khoa học, vừa làm vừa lắng nghe, không quá tự tin, không chụp mũ cho nhau, không mang vào đó những ân oán cá nhân.
Trong cuộc đời làm nghiên cứu của tôi ( viết văn nói chung cũng một cách nghiên cứu đời sống ), nhất định là có nhiều lầm lỗi. Nhưng riêng trong việc tìm hiểu thói hư tật xấu, tôi tự thấy mình chỉ có thiện chí. Cái tâm của tôi đã giúp tôi có thêm nghị lực mầy mò tìm kiếm trong một khu vực mới mẻ. Tôi mong những bạn bè và đồng nghiệp cũ, muốn “chiếu cố “ tới cả con người tôi nói chung, để cho một dịp khác.
Trước mắt chúng ta cần tập trung suy nghĩ về những vấn đề thiết thân tới sự nghiệp chung. Những gì mà các thế hệ trước chưa kịp làm , những người đang sống hôm nay phải bảo nhau làm bằng được .

................................................................................................................................................................................

Thư bạn đọc

Vương Trí Nhàn Cám ơn và đề nghị

Do sơ xuất và thiếu nhạy cảm, vừa qua trong công việc nghiên cứu, tôi có không may bị nạn. Trong những ngày khó khăn này, tôi đã được bạn bè đồng nghiệp gần xa chia sẻ cảm thông rất nhiều, kể cả trên các thư từ trực tiếp gửi tới tôi, cũng như qua các blog và các bài viết trên mạng. Trong lúc chưa kịp cảm ơn riêng từng người, tôi muốn qua đây gửi lời cám ơn chung tới các bạn.
Tôi nghĩ rằng rút kinh nghiệm từ trường hợp của tôi, những đồng nghiệp đang dũng cảm suy nghĩ về các vấn đề của xã hội VN hôm nay có thể yên tâm. Dư luận hiện đã đủ mạnh để phân biệt phải trái, và tinh thần hiệp sĩ “ kiến nghĩa bất vi vô dũng dã!” vẫn còn trên cuộc đời này, chứ không phải chỉ có những kẻ dửng dưng và “đục nước béo cò ”, ác ý và đố kỵ.
Tôi muốn dành lời cám ơn đặc biệt tới tòa soạn và cá nhân Tổng biên tập Talawas. Tính nhạy bén và khả năng bao quát tình hình của Talawas đã được chứng minh qua các bài vở và thư bạn đọc xuất hiện trong dịp này.
Trong khi chưa hết cay đắng vì bị ăn đòn, những ngày qua có một điều khiến tôi vui mừng là càng ngày càng có nhiều người quan tâm tới đề tài mà mình theo đuổi.
Nhân đây tôi có một đề nghị : Talawas nên có một chuyên mục riêng về “thói hư tật xấu người Việt” hoặc rộng hơn,” tìm hiểu người Việt ” “chúng ta tự nhận diện “ … Ngoài Talawas, những mạng đã mạnh hiện nay cũng dành ra những trang tương tự .Và nếu có những mạng chuyên về Việt Nam học thì càng tốt . Bởi như tinh thần mà tôi đã viết trong Mấy lời trần tình, nhu cầu tự nhận thức của dân tộc đang trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Những ai từng ấp ủ suy nghĩ bấy nay cần phải vào cuộc. Lảng tránh lúc này là có lỗi.
Từng người có thể sai lầm thất bại, nhưng xu thế tìm hiểu thói hư tật xấu ( theo nghĩa khoa học của từ này ) -- xu thế tự nhận thức -- thì phải như sóng trào ngày càng phát triển mạnh mẽ và có thêm những thành quả mới, có tác động ngay tới đời sống cộng đồng.


,.................................................................................................................................................................................




3) Bài phỏng vấn ông Vương Trí Nhàn (mới tinh, lên ngày 2/11/07) là một minh chứng khá điển hình cho nhận xét bên trên: thiếu đạo đức nghề nghiệp nhưng lại thừa sự láu cá ma mãnh tiểu xảo.

Ngay từ cái tựa và lời dẫn, phóng viên đã ngầm trao vào tay những độc giả nhẹ dạ một hòn đá to để “nhằm thẳng mặt ông Nhàn mà ném”. Đây là cách làm gì vậy, nếu không phải là cách làm của đám “thầy dùi chết chui”, của phường vu oan giá hoạ ?

Ai chuyên bới xấu để làm mầu cho lớp áo trí thức ngoài ông Nhàn? Ai mưu danh lợi bằng cách “làm yếu ớt đi, nhạt nhoà đi” chính cội nguồn của mình ngoài ông Nhàn? Mặc dù lời dẫn vào bài phỏng vấn nói một cách chung chung, phiếm chỉ, là “một lớp người”, nhưng người đọc ngay lập tức thấy lời dẫn này nhắm vào ai.

Nhìn chung, bài phỏng vấn này không còn thuần tuý là một bài phỏng vấn (phóng viên hỏi; người được phỏng vấn trả lời) mà nó giống như tường thuật một vụ, nói cho sang là tranh luận, nói cho chính xác là cãi nhau, mà sự cãi nhau này xẩy ra bởi một kẻ luôn khiêu khích (ở đây là phóng viên). Có những câu hỏi không hề là câu hỏi, bởi trước khi (làm ra vẻ như) hỏi, phóng viên đã cao giọng đưa ra hàng loạt khái niệm, qui định cho chính vấn đề được hỏi (rõ rệt ở phần hỏi đáp về “tự nhận thức”). Hoặc những câu hỏi đầy tính khiêu khích với những định kiến rất võ đoán như “Ông nói sao? Một thiên tài như Nguyễn Du cũng không biểu hiện cho nhận thức của dân tộc sao?”, “Chẳng nhẽ dân tộc Việt đã có hàng nghìn năm lịch sử lại không thể nhận thức được mình?” , “Đây là một cuộc phỏng vấn. Và với tư cách là một người con của dân tộc Việt, ông cảm thấy mình có bao nhiêu tính xấu trong đó?” (câu này đay đi đay lại 2, 3 lần, mặc dù ông Nhàn đã từ chối trả lời) … v.v

Đọc xong bài phỏng vấn, tôi chỉ tiếc cho ông Nhàn, đã không đủ bản lĩnh để đi đến cùng cuộc phỏng vấn bằng cách nhét … “ấy” vào mồm thằng phỏng vấn, theo nghĩa bóng, tức là dùng kiến thức của mình để lập luận, làm cho nó câm họng lại. Hoặc giả, không thể nhét “ấy” bằng nghĩa bóng thì chơi luôn bằng nghĩa đen, nếu không sẵn “ấy” thì ít nhất cũng vả vào mõm nó một phát ra trò rồi muốn ra sao thì ra (Việt Nam chưa có tiền lệ như vậy. Hình như, nước ngoài đã có nhiều)

Nhưng nghĩ lại, thấy phương án 2, tức phương án chơi theo nghĩa đen khả thi hơn, và hiệu quả hơn, bởi chơi theo nghĩa bóng, nó cứng họng, sự việc sáng tỏ, nó đếch đăng, (hoặc đăng mà cắt xén thêm bớt) thế là xong chuyện

Series “Người Việt xấu xí” của ông Nhàn trên TT-VH tôi không đọc, chỉ thỉnh thoảng vô tình bài nào “trôi nổi” trên mạng tôi mới xem qua. Nói chung, tôi không thích lắm. Không thích không phải vì nó đúng hay sai, mà vì cách ông viết hơi khô, hoàn toàn vắng bóng tính hài hước mà một đồng nghiệp của ông bên Trung Quốc (“Người Trung Quốc xấu xí”) có rất nhiều.

Tôi cũng không tin vào cái niềm tin của ông Nhàn, rằng “người ta đọc để biết, để sống tốt hơn”. Chả ai tốt lên hay xấu đi bằng cách đọc báo hay tác phẩm văn học. Nhưng tôi không phản đối và càng không kết tội ông Nhàn hay ai đó viết về “Người Việt xấu xí” là “làm nhạt nhoà nguồn cội”. Mấy chục năm qua, văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa và nền báo chí cách mạng đã sản xuất hàng mớ người tốt việc tốt, nay bì bõm ra biển lớn, hội nhập nhập hội, “tự vấn” một chút nếu không cho là cần thiết thì cũng chẳng đến nỗi chết bố con thằng nào, đừng có nâng quan điểm thành “nhạt nhoà nguồn cội” với chả “dịch nói xấu”.

Kết luận: Xét cho cùng, những hạt sạn trên trang vietnamnet không phải là đặc sản của tờ báo này, mà nó là căn bệnh chung của báo chí Việt Nam. Một nền báo chí công công thái giám, nền báo chí chưa bao giờ đồng hành và tôn trọng sự thật, mà không có cung cách làm việc như vậy mới là nghịch lí. Bởi thế, để tránh bức xúc không cần thiết, tốt nhất, cứ thấy “báo mậu dịch quốc doanh” thì nên xác định thái độ trước.

2007-11-08 03:37:01

Văn hóa chưa tác động tốt tới sự phát triển

Năm 2007 sắp khép lại. Trong cuộc trò chuyện cuối năm với TT&VH Cuối tuần, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn - người thường từ phương diện văn học nhìn rộng ra các lĩnh vực văn hóa - thử trình bày một cách nhìn lại đời sống văn hóa – văn nghệ (VHVN) nước nhà trong một năm qua, với tiêu chí “phê bình để xây dựng”. Và từ đó gợi mở đôi điều suy ngẫm về tương lai.

“Vẫn chỉ theo đà của những năm trước”

* Thưa ông, trong sự khởi sắc chung của đất nước ở nhiều lĩnh vực, ông có nhận ra những tín hiệu đáng mừng trong đời sống VHVN nước nhà năm 2007?

- Về mặt này, tôi thấy…hơi khó nói một điều gì cho rõ ràng. Nhìn chung, mặc dù năm 2007 có những bước tiến, đặc biệt là hội nhập quốc tế, song VHVN nước nhà vẫn chỉ theo đà của những năm trước, chứ chưa thấy có sự gì gọi là đột biến. Đã có một số thay đổi nho nhỏ. Chẳng hạn , ta tổ chức được nhiều festival mang "dáng dấp" của nước ngoài để tôn vinh một đặc sản, một sản vật của vùng miền.. . Song, qua báo chí phản ánh , thấy hay ít, dở nhiều, và có cảm tưởng cách thức tổ chức không phù hợp với mình, hoặc chưa được "Việt hóa" để phát huy cái hay, cái đẹp.

Nhìn vào một lĩnh vực, như văn học cũng có giao lưu đấy chứ!. Có tiểu thuyết Nhật hiện đại, sách Harry Potter có mặt ở VN cùng với thời điểm ở các nước; hay cô bé thần đồng văn học Mỹ đến VN gặp gỡ bạn đọc… Nhưng trong thời buổi hiện nay, một vài việc như thế chưa mùi mẽ gì. Một số lý thuyết về văn học hậu hiện đại được "du nhập" nhưng còn gượng gạo, và không thấy hứa hẹn là có giúp gì cho văn chương Việt. Sự hội nhập ở đây thiếu chiến lược lâu dài, thiếu chiều sâu…

* Có nghĩa là sự phát triển văn hóa - xã hội chưa theo kịp kinh tế chính trị?

- Trên TT& VH, một người nước ngoài, đâu như ông Viện trưởng Viện Goethe cũ, đã nói như vậy. Không chỉ chậm trễ, mà ở nhiều phương diện cơ bản, văn hóa ta còn trượt dài trong lộn xộn, và như vậy xem như không tìm được cách tác động tốt tới phát triển. Khi xem xét VHVN trong mối quan hệ với các vấn đề xã hội, một điều ai cũng cảm thấy, nhưng lại ngại nói: Đó là sự xuống cấp về đạo đức, sự băng hoại và suy đồi của nhân
cách...

* Xét bao quát, mục tiêu xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn chỉ là … mục tiêu?

- Chắc chắn thế, văn hóa của ta chưa thể coi là tiên tiến và cũng không đậm đà bản sắc. Nói thẳng là văn hóa ta đang lạc hậu và bản sắc thì lai tạp không thuấn nhất. Với tư cách một người có sáu chục năm sống ở Hà Nội, tôi có thể nói là văn hóa đô thị chúng ta có những bước lùi. Chẳng hạn như tục ma chay cưới xin, ta đang để cho những hủ tục quay trở lại. Những gia đình ở thành phố chật hẹp có hiếu hỉ là tha hồ kèn trống inh ỏi, loa gọi nhức tai, tự cho là vì việc hiếu nhà mình, mọi người có bị làm phiền cũng không sao... Riêng việc các tập tục đó không thích hợp với xã hội hiện đại đã đòi hỏi chúng ta phải làm khác. Nhưng không ai đủ sức chống lại cái cũ cả.


Khi giao lưu tiếp xúc với nước ngoài, một nét thấy rõ là không những ta ít tiếp thu được tinh hoa của người, mà lại dễ học đòi cái xấu. Ra nước ngoài, các đoàn nghệ thuật chúng ta chẳng có gì mới để nói với họ. Dường như, chúng ta không quan niệm rõ thế nào là tiên tiến, hiện đại, lại càng không hiểu nó cần thế nào cho phát triển...

“Có khi một bước tiến, ba bước lùi”

* Năm 2007 được coi là năm có nhiều "scandal" nhất trong VHVN?

Điều này phần nào phản ánh thực trạng kinh tế và xã hội. Trong bối cảnh vụ sập cầu dẫn cầu Cần Thơ, hay lở núi ở Bản Vẽ, rồi lũ lụt, rồi học sinh bỏ học đến mức đáng báo động, thì VH-VN có nhiều scandal là đều dễ hiểu và là xu thế chung. Sau một thời gian phát triển, nhiều mặt của đời sống đang bộc lộ những ung nhọt, mà mổ xẻ ra thì ai cũng ngại.

* Một vài giải thưởng ở các LHP quốc tế hay các cuộc thi ảnh đôi khi được làm rùm beng khiến người ta tin rằng, triển vọng đang ngời ngời mở ra trước mắt?

- Các thành tựu ở ta thường xuất hiện tự phát, nhiều khi do "ăn may" và ngẫu nhiên. Lấy thể thao làm ví dụ, vì thể thao cũng là lĩnh vực bộc lộ văn hóa. Nghe tin VN chiến thắng ở một kỳ cuộc nào tôi đã nghĩ ngay đến kỳ sau mà sợ. Ảo tưởng thôi, làm sao lần sau tiếp tục thắng được. Theo dõi những người thất thường và dễ đổ vỡ về tâm lý nhiều khi rất ngại. Chỉ sợ đau lòng! ấy vậy mà cứ bảo nhau nuôi dưỡng ảo tưởng hết đợt này đến đợt khác.

* Ông cho rằng, cọ xát với người là một dịp để nhìn rõ lại mình?

- Thì cũng chỉ còn cách ấy. Lâu nay, chúng ta vẫn nghĩ chỉ cần hội nhập kinh tế, còn văn hóa thì ta ăn đứt người. Hóa ra không phải ... So với mặt bằng của khu vực, chúng ta cũng còn chênh vênh chứ chưa nói đến thế giới.

* Nhưng ta có những bước tiến khi so với chính mình?

- Có khi một bước tiến, ba bước lùi; hoặc so với năm ngoái là tiến, nhưng so với năm năm trước là lùi. Tự so mình với mình, còn thấy có nhiều phương diện văn hóa của ta bây giờ mòn mỏi đi và có phần kém cỏi so với trước. Một người thợ mộc giỏi nhất hôm nay tay nghề không thể tinh xảo bằng các bậc tiền bối của họ. Một diễn viên, một nhạc công thổi sáo hay chơi nhị cũng vậy. Con người thời nay đánh mất tâm lý bình tĩnh để làm sản phẩm thuần thục hoàn thiện, mà chỉ 10 chạy đua theo thời gian và lợi nhuận...

* Năm 2007 có khá nhiều "sân chơi" dành cho các nghệ sĩ trẻ. Những nhân tố mới xuất hiện có thể là tín hiệu đáng mừng, thưa ông?

Hãy để một hai năm nữa, xem những tài năng trẻ có còn tiếp tục phát huy sáng tạo hay không? Tôi ngờ lắm! Theo dõi tình hình trong nhiều năm liền, tôi thấy ta có không ít tài năng bẩm sinh, nhưng đào tạo và giáo dưỡng để tài năng đó phát triển thì lại vụng nên làm họ hỏng. Trong tình trạng nhiều giá trị và chuẩn mực của xã hội tương là ồn định cũng đang trồi sụt, thì đó là chuyện bình thường. Tôi chỉ muốn chúng ta cùng dè dặt, đừng quá bốc với những nhân tố mới đó, rồi lại thất vọng.

"Cái tinh thần thì rơi rụng đi nhiều”

* Có một dòng chảy "hồi cổ” trong đời sống VHVN: cuộc tìm về của những giọng ca trẻ với dòng “nhạc xưa”, làm mới” những kịch bản sân khấu cổ truyền hay các vở cũ được dựng lại...

- Làm mới những giá trị truyền thống là việc nên làm, phải làm và đó là cách tốt nhất để bảo tồn những giá trị này. Nhưng tôi thấy, chúng ta chưa có sự chuẩn bị về lý luận để tổng kết và đánh giá cái cũ; đội ngũ chuyên gia làm công tác này vừa kém lại vừa thiếu nên việc quay về cái cũ chỉ là làm theo kiểu bắt chước, mà cái tinh thần thì rơi rụng đi nhiều.

* Sự ra đi của những "cây đa, cây đề” trong năm qua liệu có tạo nên sự hẫng hụt về đội ngũ ?

- Tôi xin phép được nói một câu có vẻ tàn nhẫn nhưng phải nói: Sự thật là sự hụt hẫng ấy có từ lâu; một số nhân vật nổi tiếng ra đi trong năm qua chỉ làm lộ rõ sự hụt hẫng ấy mà thôi. Cần thẳng thắn nhìn nhận: Trong bản thân nhiều trí thức, nhiều nghệ sĩ ở ta, khả năng làm mới mình cùng với thời gian là rất hạn chế. Sau thời điểm cao trào tạo ra những tác phẩm có giá trị từ mấy chục năm trước, sự nghiệp sáng tác của một số người này đã chấm dứt hoặc theo biểu đồ đi xuống, có làm ra những tác phẩm mới đấy nhưng không có ý nghĩa gì với đời sống trước mắt... Nhiều giá trị đã chết và trở thành tượng đài. Có những người làm hỏng hình ảnh của mình trong lòng công chúng. Tình trạng này đáng để cho tất cả mọi người rút kinh nghiệm.

* "Cuộc sống số” ngày càng bộc lộ rõ tính hai mặt của nó. Và như ông nói ở trên, ta thường dễ tiết thu cái dở hơn là cái hay. Sự bùng nổ của thông tin và sức mạnh truyền thông đi kèm với mặt trái của phong trào blog khiến không ít blogger tên tuổi phải dột ngột đóng cửa blog, hay những vụ kiện tụng đã nổ ra vì thông tin trên blog...

- Tình trạng thông tin hiện nay giống như giao thông lộn xộn ngoài đường . Anh nào rồ ga thì phóng lên trước và cứ hơn được nửa bánh xe là hơn tất cả. Truyền thông nhiều khi sa đà vào việc đưa chuyện linh tinh và tỏ ra quá chiều chuộng tốp ca sĩ, diễn viên bất tài.

Xa lộ thông tin vận động hỗn loạn và quá nhiều tiếng ồn thì dễ xảy ra tai nạn. Bởi coi tình trạng này là tất yếu, tôi cho là người trong cuộc nên bình tĩnh bởi nếu mình tin ở tính đúng đắn và sự cần thiết của mình thì cứ kiên trì, trước sau xã hội sẽ công nhận.

“Phải đi tới cùng mọi sự nhố nhăng nhạt nhẽo…”

* Ông nghĩ sao về việc các địa phương sẽ thi nhau tổ chức những lễ hội hoành tráng, nghệ sĩ càng đắt sô càng ào ào tung ra "tác phẩm” ... hào nhoáng sặc sỡ.

- Tôi cũng thấy là nhiều hoạt động văn hóa ở ta đang chạy theo bề ngoài, lấy số lượng thay cho chất lượng. Khổ nỗi là người thì đông, mà ai cũng muốn khoe tài. Bệnh cục bộ địa phương cũng ngày mỗi nặng. Cái độc đáo mà người ta cố tìm ra là cái giả, mà phần giống nhau là chính. Văn hóa không thể cục bộ như vậy được.

* Ông hình dung ra sao về xu hướng mới trong VHVN năm 2008?

- Chắc là vẫn trong tình trạng “tan băng"mà ở trên chúng ta vừa phác họa. Vẫn nhiều scandal nổ ra. Thành tựu thất thường. Giả sử, có cuộc thi nào tìm kiếm được tác phẩm xuất sắc hoặc một trại viết có ra được cuốn tiểu thuyết khá thì đây là ăn may! Loại người làm việc thận trọng có bài bản, có chuẩn bị càng ngày càng hiếm. Nhưng thôi! Phải đi tới cùng mọi sự nhố nhăng và nhạt nhẽo thì rồi chúng ta mới bình tâm mà làm ra một ít giá trị.

* Xin cảm ơn ông đã chia sẻ ít điều người ta thường chỉ nói ở chỗ riêng tư. Trong một cuộc trò chuyện ngắn không hi vọng gói trọn tất cả các mặt, các vấn đề trong một năm. Nhưng, có phải cái nhìn của nhà phê bình thường khắt khe nên dễ bỏ qua những thành tựu đáng ghi nhận? Có bao giờ ông nghĩ là nhiều bạn đọc và các đồng nghiệp không đồng ý với mình?

- Việc ghi nhận thành tựu đã có những người khác. Ở đây tôi chỉ trình bày ý kiến của riêng tôi về những bất cập, và nếu như chỉ có độ một nửa hay một phần ba độc giả và các đồng nghiệp chia sẻ với các nhận định trên, tôi cũng thấy thỏa mãn lắm rồi.

Nguồn: Thể thao & Văn hóa cuối tuần

“Dựng lại” chân dung văn học: Cực khó!

Tiếc rằng ở ta bộ môn lịch sử - với tư cách ngành quan trọng nhất trong khoa học nhân văn, vừa kém cỏi vừa cổ lỗ khiến cho quá khứ trở nên xa lạ với con người hiện đại mà những bế tắc trước mắt cũng không tìm được cơ sở để lý giải và khắc phục.

Hỏi: Ông đã tập hợp và biên soạn cuốn sách như thế nào? Hay nói cách khác, với tư cách một Biên tập viên NXB, ông có rút ra được kính nghiệm gì khi làm những loại sách chân dung văn học này?

Vương Trí Nhàn: Vào những năm 80 của thế kỷ trước vốn kiến thức văn học nước ngoài của bọn cầm bút chúng tôi kém cỏi đến thảm hại. Bởi trong chiến tranh mọi thứ phải nhịn hết. Ngoại ngữ chúng tôi không được học, mà giá có biết cũng không có sách báo để đọc.Văn học phương Tây chỉ thu hẹp trong mấy tác giả cổ điển như Hugo, Balzac... Ngoài ra , chúng tôi được dạy là sang thời hiện đại ở bên trời Tây ấy, văn chương suy đồi hư hỏng hết rồi, nó là một thứ dị giáo phải tránh cho xa (cái tội ngu dân của nền giáo dục trước 1975 ở Hà Nội , thật kể không bao giờ hết!). Sau khi đất nước thống nhất, vào Sài Gòn, chúng tôi có tìm được một số tư liệu văn học cũ trên các tập sách cũng như các tờ báo như Bách Khoa hoặc bán nguyệt san Văn, nhưng lúc tìm được các tờ này thì nó đã bị đình bản, tức là sau đó, nguồn tư liệu của chúng tôi cũng cạn hoàn toàn. Chính trong hoàn cảnh ấy, mà loạt bài văn học của TT&VH ra đời, 20 năm nay đối với bạn đọc thực sự đã làm trong việc "khai sáng". Nhận thấy đến nay những bài chân dung ấy vẫn chưa hết giá trị, tôi đã bàn với Anh Hà Vinh và các cộng tác viên của Báo TT&VH in ra sách. Các bài trong tập sách đã cung cấp cho độc giả một bằng chứng về trình độ của khoa nghiên cứu văn học ở phương Tây hiện nay.

Chẳng những đối vôi các tác giả đương thời mà đối với các tác giả cổ điển, họ cũng biết cách tiếp cận, khiến cho đối tượng trở nên sinh động, như những con người có thực. Thứ nữa, những chuẩn mực để xem xét và đánh giá con người của họ khá cao để chỉnh lý và sắp xếp lại rồi mang in.

Thật ra ở ta, làm sách chân dung văn học thời buổi này vừa để lại vừa khó. Dễ vì thông tin bây giờ nhiều và dễ tìm nhưng lại rất khó vì người làm sách phải tìm kiếm được những nhiều mới về cuộc đời nhà văn và tiếp cận chúng ở những góc nhìn mới?

Đúng là ở ta có khác, khi thì loanh quanh đi vào hoàn cảnh lịch sử với kiểu thế giới quan cứng nhắc, khi thì xoay ra khai thác toàn chuyện vặt vãnh để câu khách. Ngoài ra, ngay cả thái độ tiếp nhận của bạn đọc, nhất là học sinh, sinh viên, theo tôi, cũng cần xem xét lại. Học sinh, sinh viên của ta phần lớn không yêu văn học cổ điển của dân tộc. Họ chỉ đối xử với những Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Gia Thiều, Tú Xương, Tản Đà theo lối kính nhi viễn chi, học để lấy điểm chứ không bao giờ xem việc đọc tác phẩm cổ điển, nghiên cứu về tác giả như một nhu cầu nội tại, kể cả sinh viên chuyên ngành. Tất nhiên trong việc này cũng có lỗi lớn của các nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học.

Hỏi: Nhưng còn một lý do nữa. Bạn đọc chán loại sách chân dung văn học vì người làm sách vẫn chủ yếu nghiêng nhiều về kể lể tiểu sử, kể lể sự nghiệp sáng tác (những chặng, mốc trong văn nghiệp) theo một cách tiếp cận rất xơ cứng. Vì thế mà rất hiếm những bài chân dung được tiếp cận ở những góc nhìn đời thường. Có điều, muốn tiếp cận nhà văn ở góc độ đời thường nhất để lý giải tâm thế sáng tác của họ lại là điều rất khó - nhất là các tác gia đã cách chúng ta cả thế kỷ, lại là tác gia nước ngoài - khi mà sự am hiểu của ta còn chưa nhiều?

Vương Trí Nhàn: Trong việc này, các nhà nghiên cứu văn học cần được sự trợ giúp của khoa nghiên cứu lịch sử. Tiếc rằng ở ta bộ môn lịch sử - với tư cách ngành quan trọng nhất trong khoa học nhân văn, vừa kém cỏi vừa cổ lỗ, khiến cho quá khứ trở nên xa lạ với con người hiện đại mà những bế tắc trước mắt cũng không tìm được cơ sở để lý giải và khắc phục.

Hỏi: Theo ông, ở thời điểm này, ta có nên và liệu đã có đủ điều kiện “làm lại”, "dựng lại" một số chân dung trong văn học sử Việt Nam, kể cả những tác giả đã khá quen thuộc như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương...?

Vương Trí Nhàn: Nên thì bao giờ cũng nên. Nhưng đúng là còn lâu ta mới có đủ điều kiện! Chính vì như thế càng phải lo học hỏi thêm ở người.

Hỏi: Qua có những nhà văn như thế, có thể thấy vai trò rất quan trọng của "người môi giới" văn học - cầu nối giữa nhà văn và bạn đọc. "Người môi giới" giới là người biết cách tiếp cận và truyền đạt những vấn đề phức tạp đến bạn đọc theo một cách đơn giản, dung dị. Ngược lại, "người môi giới" tồi có thể khiến cho những vấn đề tưởng chừng đơn giản trở nên rối rắm, khó hiểu!

Vương Trí Nhàn: Ngoài ra, "người môi giới giỏi" cũng phải là người hiểu được nhu cầu của độc giả trong nước. Tức là có tham vọng "lấy thuốc tây để trị bệnh ta". Còn nếu như không hiểu xã hội cần bài của mình làm gì mà chỉ chăm chăm chuyển ngữ mấy bài đọc được ở báo chí nước ngoài, thì hiệu quả công việc sẽ rất hạn chế, may lắm được coi như một kẻ biết lắm trò lạ và giỏi kiếm chuyện làm quà. Tiếc thay đây đang là tình trạng phổ biến của nhiều bài giới thiệu văn học nghệ thuật của nước ngoài trên mặt báo hiện nay!

Nguồn: Thể thao văn hóa">

thụy khuê phỏng vấn








"Kính trọng là gọi đúng tên sự vật!"

´ Có vẻ như ở ta đang trở lại khái niệm "sách gối đầu giường"?

- Tôi thì lại cho nó không bao giờ trở lại.

´ Dạng sách "sống đẹp" đang đắt hàng đấy thôi!

- Nhưng đó đâu còn là dạng sách nêu gương dạy đời kiểu cũ.

´ Nó là một thứ "thuốc giảm đau"?

- Chỉ một số thôi. Chức năng "tiếp đạm" thì đúng hơn!

´ Trước, cả làng "gối" chung một cuốn "đầu giường" là mừng. Còn nay, cái mốt đọc sách "adua", "nghe hơi nồi chõ" ngự trị?

- Trước, khi con người ta còn nhiều cái chung thì đó là điều thánh thiện. Nay, cái sự "adua" ấy lại bộc lộ phần yếu đuối của con người: bản năng bầy đàn, đua đòi...

´ Tâm thế đọc sách phổ biến của người đọc hôm nay?

- Giải trí và nghe ngóng xem chung quanh sống thế nào.

´ Toàn cảnh văn học nước nhà lúc này?

- Là một khu rừng thứ sinh, mạnh ai nấy phát, chứ không có vẻ đẹp cộng sinh như trong một khu rừng nguyên sinh. Nếu bảo giống như một rừng cỏ tranh chắc cũng chả oan!

´ Hỗ trợ chắc gì đã thúc đẩy phát triển bằng cạnh tranh!

- Nhưng sự đua tranh giữa những con bươm bướm, may ra chỉ được ít cảnh tượng vui mắt, trong khi cuộc thi tài của những con sơn ca mang lại hiệu ứng khác hẳn.

´ Làng phê bình gần đây có vẻ cũng "ít trò"?

- Một dạng "nhờn thuốc"!

´ Một bài viết của ông gần đây vừa bị "đánh", sao không thấy ông "cãi lại"?

- Điều cần nói đã nói, cãi nhau làm gì cho mệt! Đã chết nay chết mai đâu, mình còn viết nữa cơ mà!

´ "Không đội trời chung" có là chuyện đáng phiền lòng?

- Cái chết của dân mình nằm ở chỗ họ cứ tưởng là họ hiểu nhau. Vợ chồng đầu gối tay ấp mà đùng một phát, có khi chỉ một câu nói mà lộ ra: hoá ra "tay" kia chả hiểu gì mình!

´ Lạ là lắm khi đọc văn học dịch, lại thấy "người ngoài" hiểu mình hơn "người trong"!

- Ngược lại, sở dĩ "người ngoài" lười đọc mình vì khó tìm thấy họ trong đấy.

´ Không loại trừ có những cuốn sách hay nền văn học được chú ý, một phần còn vì vị thế kinh tế, chính trị của đất nước đó?

- Nhưng ưu thế đó đã ăn vào bản lĩnh của từng cá nhân. Người ta hơn mình ở chỗ biết đẩy mọi sự đến cùng thành một cái gì đấy dày dặn hơn, một hiện tượng.

´ Dòng chảy văn học dịch vào ta theo ông hiện có ổn?

- Còn tuỳ tiện lắm, gặp đâu làm đấy, không theo luồng lạch nào.

´ Cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn sắp kết thúc, ông có hy vọng?

- Không. Cùng lắm thì có thể có một vài cuốn sách, nhưng không dễ để có một tác giả.

´ Còn nhân sự mới vừa được "trẻ hoá" của BCH Hội?

- Có những cái mới không hẳn khác cái cũ, mà chỉ giống như một dạng "phố kéo dài".

´ Dạo này ông còn thú "tắm tiên" ở bãi giữa sông Hồng?

- Vẫn chứ! Để hàng ngày được sống trong cảm giác... kính trọng thiên nhiên.

´ Không kính trọng nền văn học đôi khi cũng có thể khiến một nhà phê bình khó hết mình?

- Kính trọng là gọi sự vật bằng đúng cái tên của nó!

Thiên An thực hiện Ngày 01.08.2005 lao đông

Ðọc sách Cây bút đời người - chân dung văn học của Vương Trí Nhàn

Vương Trí Nhàn là một cây bút phê bình khá quen thuộc của độc giả TP.HCM. Trước đây ông viết vài tập sách mỏng như Cánh bướm và đoá hướng dương, thử tìm cách phác hoạ gương mặt của một số nhà văn mà ông có nghiên cứu. Lần này, trong cuốn Cây bút đời người, ông vẽ phác mười hai chân dung nhà văn: Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nghiêm Ða Văn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thành Long, Nhị Ca, Thanh Tịnh, Tế Hanh, Nguyễn Tuân, Tô Hoài và Xuân Diệu. Viết về các nhà văn, ông nói gần như tâm sự: “Người đời đôi khi thành kiến rằng đám người viết văn chẳng qua là một bọn dông dài. Trong khi ấy, một số đồng nghiệp viết phê bình của tôi (nhất là các nhà giáo) có xu thế lý tưởng hoá những người viết văn, xem cây bút nào cũng tâm huyết như mình. Về phần tôi, tôi muốn nghĩ ngoài đời có bao nhiêu kiểu người thì trong văn chương có bấy nhiêu kiểu người cầm bút, ở đây cũng có thánh thần và có ma quỷ, và trừ một số tài năng sáng chói, thì phần lớn người cầm bút cũng có cả những chỗ tầm thường lẫn cao quý".

Mười hai nhà văn trong Cây bút đời người là những con người như vậy. Có những nét đáng yêu, cũng có những nét đáng chán. Có những phần lẫn lộn ngay trong một con người.

Một trong những điều mà ông quan tâm mô tả là các nhà văn sáng tác như thế nào. Vào đầu sách, khi nói về thơ Xuân Quỳnh, ông viết: "Người ta làm thơ như thế nào? Ðã nhiều lần, trong tôi đã nảy ra câu hỏi có vẻ tò mò vậy, mà chưa dám hỏi một ai, vì nhiều lần cứ định hỏi thì mọi người tìm cách lảng". Nhưng may là nhà thơ Xuân Quỳnh không lảng tránh. Bà đưa cho ông Nhàn coi, bên cạnh bài thơ, là những quyển vở đã ghi chi chít những chữ là chữ. Bà đã nháp bài thơ ra văn xuôi trước khi hoàn chỉnh nó và cho nó một khuôn mặt cố định trên giấy. Bà nói: "Lúc viết những dòng này, tôi như người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết những ý nghĩ đang ào ào kéo đến trong đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vần, tôi làm sau, việc ấy đơn giản hơn".

Có một lần nhà thơ Tế Hanh hỏi Vương Trí Nhàn một câu: "Cậu là nhà phê bình, cậu hãy cắt nghĩa thử xem tại sao, nhiều tập thơ làm trầy trật mãi không xong, trong hai tập thơ hay nhất của mình Nghẹn ngào và Gửi miền Bắc, những bài chính chỉ làm trong độ nửa tháng”. Trong câu hỏi đó, ông cảm thấy ở Tế Hanh một sự tin cậy đối với một tác giả tương đối trẻ như ông, và gợi cho ông một cật vấn, một ám ảnh: có lẽ sáng tác là một bí mật mà người ta tìm kiếm hoài không một giải đáp.

Không phải trong mười hai nhân vật mà ông giới thiệu lần này, ai cũng vui vẻ và sòng phẳng trả lời câu hỏi trên, nhưng ở người này hay người khác, cũng nhiều ý kiến hay. Như đoạn viết về Nguyễn Khải: “Lao động viết văn ở Nguyễn Khải là một chuỗi công việc cực nhọc. Có một câu nói trong Kinh Thánh ông thường thích nhắc lại, đại ý “mi là muối mà mi không mặn thì làm sao muối được những thứ khác”; đối với ông đã bắt tay cầm bút mà viết không hay thì còn ra cái thể thống gì nữa? Ðọc những tác phẩm khác mình thì ông chỉ đau đớn vì chưa biết làm sao để viết hay như họ. Một điều thường trực trong lòng ông: Làm sao để trở thành ngòi bút lợi hại".

Một đoạn khác viết về Nguyễn Tuân: “Với ông, nghề văn có được ý nghĩa của một thứ nghề có căn có cốt; muốn làm nghề đó chỉ có năng khiếu và say mê thì không đủ, mà người ta còn phải khổ công học hành để tự làm giàu mãi lên, vì biết sự hoàn thiện của nghề là vô cùng tận… Ai cũng biết sức đọc của ông thật là đáng kể, ngày nào không đọc được một ít thường bứt rứt trong người. Ông đọc và tìm cách thu hút tất cả lên trang viết. Ấy là chưa tính đến những phút cặm cụi trước trang giấy trắng viết, sửa chữa, thêm bớt, viết lại, cốt sao không viết được hơn nữa mới thôi. Có điều, khi có được sự hướng dẫn của một mỹ cảm tốt, sự khổ hạnh ở đây không bao giờ đồng nghĩa với lối hùng hục kéo cày của những ngòi bút bất tài, mà vẫn có chút gì đó vui vẻ thanh thoát và trong trường hợp thành công, tác phẩm có cái tự nhiên như hoá công ban cho vậy".

Những đoạn trích dẫn như trên không phải là cá biệt, hoặc điển hình, bạn có thể đọc được ở bất cứ nhà văn nào, có điều là mỗi người một vẻ. Có nhiều chuyện thuộc về con người của nhà văn, những con người thật, bình thường của họ trong cuộc đời. Có những người lúc nào cũng miệt mài viết lách như mang một cái nghiệp. Có những người đi ngang về tắt khi xã hội sang cơ chế thị trường. Theo tôi, điều đáng quý trong cuốn sách của ông Vương Trí Nhàn, là những chuyện ấy.

Lê Minh Ðức

"Phải tư duy văn học VN theo tiêu chuẩn thế giới"

Tác phẩm đoạt giải B Hội Nhà văn VN 2003
Năm 2003, khi được trao giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, tập phê bình Cây bút đời người của Vương Trí Nhàn đã tạo ra nhiều sóng gió trên văn đàn. Tháng 10-2005, cuốn sách này tiếp tục được tái bản với những sửa đổi bổ sung “cho đầy đặn”.
Buổi trưa ở NXB Hội Nhà văn, nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn đã trò chuyện với chúng tôi:

* Sau những tranh luận trái ngược nhau, đến bây giờ, ông có còn nghe những lời không hay về cuốn sách?

- Tranh cãi thì nhiều, khi viết về Xuân Diệu, có người nói: “Con tôi nó bảo Xuân Diệu chết rồi mà còn viết”; có người đọc xong cuốn sách nói thẳng rằng tôi nhạt và ác. Điều này làm tôi cảm thấy bị xúc phạm và quyết tâm phải chứng minh ngược lại. Và điều an ủi là tôi vẫn còn thấy rất nhiều người đọc và chấp nhận những thực tế tồn tại mà tôi viết ra.

Lần tái bản Cây bút đời người này không phải do tôi “khéo chạy” mà là độc giả thích và mua nó. Văn học khá sòng phẳng, nếu viết không hay thì chẳng bao giờ có bạn đọc. Dạo này tôi cũng đã chẳng nghe gì nữa rồi.

* Nếu cần một lời nhận xét chung về phê bình văn học hiện nay, ông sẽ nói gì?

- Chẳng có gì hết. Tôi thấy trên báo có một vài bài phê bình, nhưng như là những bài quảng cáo sách, còn phê bình đúng nghĩa thì không.

* Vậy là ông cũng đồng ý với quan điểm, phê bình hiện nay thường là quá chê, hoặc quá khen, và phần nhiều là do cảm tính hay các quan hệ cá nhân?

- Đồng ý hoàn toàn. Tôi thấy phần nhiều tác phẩm được chú ý là do “đánh đấm”, hoặc là do quan hệ cá nhân (không ít tác giả được bạn bè giới thiệu là “những đỉnh cao mới”). Những bài ấy không giúp cho người đọc trong việc chọn sách, không giúp cho nhà văn nhìn lại mình mà nó chỉ tạo nên quan hệ với tác giả cuốn sách. Công việc phê bình phải có ý nghĩa xã hội, giúp xã hội được điều gì đấy chứ không phải thi nhau đánh giá như cân đong, mà tôi nói thật, thời này cân cũng có dăm bảy loại cân.

* Và Đỗ Hoàng Diệu với Bóng đè ồn ào thời gian qua là một ví dụ?

- Thú thật là tôi chểnh mảng đọc Bóng đè, tôi không hy vọng lắm. Tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ hãy chờ đợi vài năm nữa xem sao. Tôi muốn chờ đợi một nhà văn đích thực chứ không phải là một ngôi sao vụt tắt. Theo kinh nghiệm của VN 20 năm nay, tác giả trẻ rất chóng tàn lụi theo nhiều cách, người thì không viết nữa, người ngủ quên trên vinh quang, người viết kém đi. Nhiều người nổi tiếng khen Bóng đè, nhưng tôi thì không.

* Ông có vẻ bi quan về nền văn học hiện nay, nhất là văn học trẻ!

- Đúng. Nền văn học của chúng ta đang ở thời kỳ trì trệ, cái cũ không hay bằng hôm qua, cái mới thì chưa xuất hiện. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly của nhà văn Xuân Khánh là tổng kết của cách viết cũ chứ chưa mở ra cách viết mới. Các cuộc thi tiểu thuyết, tôi thấy không tạo được cái gì mới, vì toàn là những quan điểm cũ, viết như một thói quen, hôm qua viết như thế nào thì hôm nay vẫn viết như vậy. Tôi thấy chúng ta cần có những quan niệm mới, cả về đời sống xã hội lẫn kỹ thuật trong sáng tác.

* Nghĩa là ông chẳng đặt hy vọng vào ai?

- Tôi không hy vọng vào ai mà hy vọng vào mọi người. Chúng ta phải nghĩ đến một ngày nào đó, người ta phải dịch mình chứ không phải là mình nhờ họ dịch. Sự đánh giá của dư luận rất công bằng, tôi nghĩ Nhật ký Đặng Thùy Trâm là một ví dụ.

Chúng ta phải tư duy văn học VN khác đi, nên lấy tiêu chuẩn thế giới chứ không phải tiêu chuẩn VN. Tôi thấy đời sống người dân bây giờ khá phức tạp. Họ bị khủng hoảng tâm lý, cảm thấy trống vắng và cần phải có những nhà văn giúp họ thoát khỏi cảnh ấy, chia sẻ với họ, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống. Nhưng văn học không làm được điều ấy. Tôi thấy văn học không đủ sức đóng vai trò mở đường cho người đọc. Điều này dường như báo chí làm tốt hơn.

* Ông đã nói rằng ông từng có ý định viết một công trình lý giải hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, tại sao lại thôi?

- Tôi thấy đáng lẽ phải có một người viết về Thiệp, cắt nghĩa tại sao Thiệp tồn tại được. Dù thế nào thì đó cũng là một người đứng top 5, top 10 trong các nhà văn của thế kỷ 20 mà người nước ngoài nào quan tâm đến văn chương VN cũng muốn đến gặp. Nếu tôi viết tốt, nói được bản chất của Nguyễn Huy Thiệp thì ngay cả nước ngoài cũng phải dịch cuốn sách ấy. Nhưng tôi già rồi, tôi tự thấy mình viết chậm và chưa đủ tầm.

* Đó có phải lý do khiến nhiều cuốn sách của ông rơi vào tình trạng dở dang?

- Đúng là tôi có nhiều cuốn sách dang dở, như cuốn Đời và thơ Xuân Quỳnh chẳng hạn, viết mãi không xong. Tôi nghĩ nếu có hai năm thảnh thơi thì tôi sẽ viết lại nhật ký của mình. Ngoài ra, tôi còn tham vọng viết hồi ký, nhưng đó là một thể loại rất khó vì phần lớn là tự khoe mình. Tôi rất sợ cuốn sách của mình sẽ trở nên tầm thường.

* Tên ông là Nhàn, lại còn Trí Nhàn, nhưng trong cuộc sống hình như ông không được hưởng cái sự nhàn nhã ấy?

- Cái tên tôi nó mâu thuẫn như bát nước đường đổ thêm tí mắm. Tôi không bao giờ thấy mình nhàn rỗi, bởi vì tôi làm việc đến “chảy máu mắt”. Tôi nghĩ chỉ khi mắt không đọc được, khi đầu óc lẩn thẩn không thể viết được nữa tôi mới không làm việc.

* Dạo này cái thú tắm sông của ông vẫn còn?

- Tất nhiên, không thể bỏ được. Ba năm trước, cột sống tôi nhức đến mức đứng không yên, ngồi không yên, đau lên cả cổ và bác sĩ từng bảo phải mổ may ra mới đỡ. Một người bạn “nghiện” bơi sông Hồng khuyên tôi nên ra bãi bơi. Tôi là dân Thụy Khuê (Hà Nội), từ bé đã bơi ở Hồ Tây, bơi giỏi lắm, thế nhưng ở tuổi 60, lần đầu bơi giữa sông Hồng thấy mình như ngập vào một thế giới khác. Hơn 1.000 ngày đón bình minh ở đây, cột sống của tôi đã “ngoan” hẳn, không hành hạ và tôi cũng không có ý định tìm đến dao kéo nữa. Bây giờ mà một ngày không ra sông, tôi bứt rứt không chịu được. Sức mạnh của thiên nhiên nó mạnh như thế đấy...

Chủ nhật, 23 Tháng mười 2005, Người Lao Động"
SỐ TRUY CẬP