Bớt viết để nghĩ về tiểu thuyết và học cách viết tiểu thuyết

1/ Chỗ bí của sáng tác bắt đầu từ lý luận
"Tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu?" là một câu hỏi mà gần đây những người yêu văn học thường hỏi nhau và , khi trực tiếp khi gián tiếp , một số tờ báo đã mang ra trao đổi. Theo sự nhìn nhận của tôi , cái được của những cuộc thảo luận bỏ dở này không phải ở những kết luận mà nó rút ra, mà ngược lại chính là ở chỗ nó tố cáo một sự thực : người làm nghề đang rất lúng túng . Số lượng đã ít mà chất lượng tiểu thuyết viết ra còn đáng lo hơn. Có thể tạm hình dung không gian tiểu thuyết đang như thế này: cái cũ đã quá thoái hoá mòn mỏi mà cái mới chưa tới .Và chúng ta đang khủng hoảng về lý luận .Có người sẽ bảo sao lại thế , sáng tác dũi trước rồi lý luận phê bình mới ăn theo về sau chứ ? Cần nói thẳng với nhau rằng , từ thế kỷ XX trên phạm vi toàn thế giới,đấy là một quan niệm đã cũ .Nay là lúc các nhà văn không thể làm ăn theo kiểu mò mẫm . Mọi tìm tòi phải được bắt đầu bằng lý luận , và quan niệm được hình thành sẽ là kim chỉ nam hướng dẫn hoạt động. Dăm bảy năm nay, khi nghe nhiều cuộc thi tiểu thuyết được phát động, tôi vẫn không tin là có hiệu quả, nếu có vài cuốn đọc được chỉ là cầu may, chứ không bao giờ có một “mùa màng bội thu “như người ta mong mỏi --, lý do là vì sự đột phá về lý luận không được huy động .

2/ Và chỗ bí của lý luận lại là không biết tiếp nhận cái mới của nước ngoài

Đứng ở quan niệm lịch sử mà xét , nhiều sự vật rất thân thiết với chúng ta như bánh xà phòng, chiếc xe đạp , việc làm một tờ báo , việc in một cuốn sách , đều là do dân ta học hỏi của nước ngoài . Việc viết tiểu thuyết cũng vậy , đây rõ ràng là một thể tài ngoại nhập . Điều này được chứng minh không chỉ trong nửa đầu thế kỷ XX , mà ngay thời gian gần đây cũng vậy . Ví như những năm sáu mươi của thế kỷ trước , thấy xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết dài như Vỡ bờ , Sóng gầm , Sống mãi với thủ đô, lý do là nhờ lúc ấy hàng loạt tiểu thuyết kiểu như Chiến tranh và hoà bình , Những người khốn khổ , Ivanhoe , và lùi về sau một chút , Sông đông êm đềm, Con đường đau khổ , Cơn bão táp , được dịch in , đồng thời thứ lý luận đi sát loại tiểu thuyết đó được giới thiệu . Nhắc lại như thế để thấy gần đây , do sự tiếp nhận không được làm có bài bản như cũ , nên chất lượng tiểu thuyết cũng chững lại . Phần lớn nhà văn , nhất là các cây bút trẻ làm việc trong mò mẫm , cứ ang áng hình như cái mình viết thế này là tiểu thuyết , thế kia là hiện đại chứ thiếu cả lòng tin lẫn hiểu biết tương xứng . Thảng hoặc đôi khi có giới thiệu tiểu thuyết mới thì chỉ giới thiệu chay , không tính giới thiệu lý luận , nhiều người không sẵn sàng tiếp nhận lý luận; những quan niệm nước ngoài đưa vào thường không được chúng ta hiểu thấu và rất khó có cơ hội vận dụng; người khao khát đổi mới có thể có, nhưng người biết đổi mới một cách thực sự không có, chưa có; chúng ta còn rất thiếu những nhân cách văn học lớn, những cây bút đầu đàn dẫn đường …

3/ Có đổi mới nhưng vẫn là bất cập
Đặt trong hoàn cảnh đó , phải công nhận một nhà văn như Nguyên Ngọc có nhiều đóng góp . Ông sớm thấy cần phải có một quan niệm làm nền . Hơn nữa, cái quan niệm Nguyên Ngọc đưa ra và dùng để đối chiếu với tình hình đó là một trong những quan niệm hiện đại, chúng ta rất cần học hỏi để tiếp nhận. Ý chúng tôi muốn nói đến lý luận về tiểu thuyết của nhà văn M. Kundera mà ông đã dịch để rồi sau đó lại dày công nghiên cứu giới thiệu ở nhiều nơi . Một bài viết như Còn nhiều nhà văn rất có tư cách in trên báo điện tử Vietnamnet số ra 02-11-05 có tính đại diện rõ rệt . Nếu biết rằng thời gian gần đây , ý kiến loại này còn được ông trình bày trong nhiều bài viết khác thì có thể thấy việc dừng lại trao đổi về nó sẽ là có lợi cho tình hình chung . Song tiếc thay , đọc vào bài một bài viết nhiệt huyết như thế này, người ta vẫn không thể hiểu được thế nào là tiểu thuyết hiện đại . Vấn đề không phải là sự phân biệt giữa tiểu thuyết và truyện ngắn truyện vừa, mà vấn đề còn là ở chỗ tìm xem trong lối khái quát đời sống, tiểu thuyết có gì khác với các hình thái tư tưởng khác. Xét theo yêu cầu chính đáng đó , những luận đề về tiểu thuyết hiện đại mà Nguyên Ngọc nhắc lại từ Kundera như “ nghệ thuật về sự bất định của cuộc đời, sự phi chân lý độc tôn “ , về “cuộc dò tìm mãi mãi cái bất định vô tận của số kiếp con người “ đâu phải là độc quyền của tiểu thuyết . Đúng hơn, phải nói nó là đặc điểm của tư duy hiện đại nói chung; ảnh hưởng vào tiểu thuyết ra sao, cần phải được lý giải tường tận hơn gắn với sự phát triển lịch sử của nhận thức mà từng xã hội từng nền văn học đã trải qua .
Có điều lạ mặc dù rất mê Kundera và không bỏ lỡ bất cứ dịp nào có thể tuyên truyền cho các quan niệm của Kundera , song trong thực tế suy nghĩ của mình, Nguyên Ngọc lại đi ngược quan niệm mà nhà văn Pháp gốc Tiệp này khởi xướng. Tôi nói thế bởi vì (không biết có bạn đọc nào chia sẻ với tôi không), đọc Nguyên Ngọc trong lý luận , luôn luôn cảm thấy ông quá tự tin, quá độc đoán, và trong khi đề cao quan niệm có nhiều chân lý thì ông lại cho thấy ông chỉ muốn bạn đọc tin một chân lý duy nhất là cái chân lý do ông truyền đạt . .


4/ Những tổng kết chủ quan , thiên kiến
Nhiệt tình chính trong nhiều bài viết của Nguyên Ngọc thời gian gần đây là nhiệt tình khẳng định rằng văn học ta đang trong giai đoạn trì trệ và chỉ có cách hiện đại hoá nó, chúng ta mới tạo nên một sức bật mới cho văn học, từ đó tạo nên một nền văn học có ích như ông mong muốn
Tức là ngoài quan niệm, ông có ý liên hệ với tình hình văn học đương thời và muốn hướng dẫn nó, gợi ý cho nó một hướng phát triển.
Nhiều người vốn trông đợi ở Nguyên Ngọc , muốn hiểu ông đánh giá tình hình sáng tác ra sao , nhưng đọc phần này thường thất vọng , đến bài viết Còn nhiều nhà văn rất có tư cách lại càng thất vọng. Tác giả khá tuỳ tiện trong việc kể tên các nhà tiểu thuyết đương thời , mà cũng chẳng có phân tích về những hướng phát triển của tiểu thuyết dù là trên nét lớn . Nói một cách chặt chẽ thì Nguyên Ngọc chưa nghiêm túc tìm cách trả lời cho câu hỏi tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu.
Còn một điểm nhỏ cũng cần lưu ý : Mỗi khi có dịp phát biểu về tiểu thuyết đương thời , Nguyên Ngọc thường trở đi trở lại với cái ý rằng ở ta hiện đại hoá mà ông muốn chúng ta đi theo bắt đầu từ Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh. Bề nào mà xét thì ý kiến này cũng không thể chấp nhận được. Thế còn những Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân trước đó hoặc về sau này Nguyễn Khải thì sao? Theo chỗ tôi nhớ, Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Ngọc Tấn tác giả Trăng sáng và Đôi bạn chứ không phải Nguyễn Thi) hồi viết Im lặng cũng có tư duy khá hiện đại. Lấy một ví dụ nữa. Những năm Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp viết tốt nhất cũng là thời gian Tô Hoài cho in Cát bụi, chân ai , một cuốn gọi là hồi ký cũng được mà là tiểu thuyết cũng được, và đáp ứng đủ mọi tiêu chuẩn của tiểu thuyết mà Nguyên Ngọc đưa ra. Thế thì tại sao trong đầu Nguyên Ngọc hình như chỉ có hai nhà văn nói trên? Tôi tự cắt nghĩa cho mình thế này: việc hình thành tài năng của hai nhà văn Bảo Ninh và Nguyễn Huy Thiệp hồi ấy có gắn với nhiều đóng góp của Nguyên Ngọc cho đời sống văn học, vì thế sự kiên trì nói trên của tác giả Đất nước đứng lên là có thể hiểu được. Song tôi cho rằng không nên đặt tình cảm lên trên sự thực khách quan như vậy.

5/ Cái gốc của mọi biến đổi là ở con người
Khi khái quát về tình hình sáng tác gần đây , nhiều người có xu hướng nghĩ thế này : vâng , có thể sáng tác của chúng ta chưa tốt , nhưng về căn bản chúng ta có một đội ngũ càm bút rất đáng quý , nhiều người trong họ rất có tư cách . Theo tôi nói vậy là có phần dễ dãi với nhau , nuôi cho nhau ảo tưởng . Bởi nói tới tư cách của một người cầm bút, trước hết phải nói đến chất lượng sáng tác, muốn đánh giá họ hãy căn cứ vào sáng tác - chứ còn mọi ý đồ mọi lời tuyên bố đều vô nghĩa. Thế mà sáng tác của chúng ta thì đang ấm ách trì trệ; một vài cây bút được đề cao chẳng qua chỉ là khéo “ chọc” vào cái bực bội nặng nề trong tâm lý đại chúng ; nhìn rộng ra thấy không ít nhà văn khi xuất hiện đầy hứa hẹn, viết được một hai cuốn rồi cũng xuống tay và bỏ nghề luôn.Thế thì biết nói gì với nhau bây giờ?!. Đấy là xét trên nguyên tắc. Còn trong thực tế, nhìn thẳng vào giới nhà văn hiện thời, phải nhận số có tư cách thực sự cũng không bao lăm; nhiều người chỉ nói miệng, tát nước theo mưa kiếm danh, chứ chẳng để tâm làm việc mà cũng chẳng có lòng có bề gì với đời sống; hoặc có lòng nhưng lại không có hiểu biết tương xứng và không hiện thực hoá được thiện chí của mình.

Trước tình hình chung, tôi xin mạnh dạn nói rằng nên bi quan chứ không nên lạc quan . Biết rằng tiểu thuyết của mình còn ít, và người Việt mình (chứ không phải chỉ các nhà văn) vốn thích làm hơn thích nghĩ, nhưng tôi vẫn cho rằng nay là lúc các nhà văn nên bớt viết để nghĩ nhiều hơn về tiểu thuyết. Nhất là xã hội nên lo nuôi lấy vài người chuyên đi vào tìm hiểu giới thiệu lý luận cũng như thực tế sáng tác tiểu thuyết ở nước ngoài. Bảo nhau thành khẩn học hỏi kiên trì làm một thời gian, rồi may ra dăm mười năm nữa, chúng ta mới theo kịp sự phát triển của tiểu thuyết trên thế giới.
Báo chí văn nghệ cần khởi động lại cuộc trao đổi về tiểu thuyết (tôi không muốn dùng chữ hâm lại vì nó gợi cảm giác gượng gạo và không thấy rằng chúng ta cần làm tốt hơn những gì đã làm)./.

Không có nhận xét nào:

SỐ TRUY CẬP