Vài nét về tư duy tự sự của người Việt

I

Thông thường một nền văn học được nghiên cứu bằng cách đi sâu đánh giá phân tích các tác giả tác phẩm quan trọng rồi từ đó hình thành nên các giai đoạn các thời kỳ chủ yếu mà nền văn học đó đã trải qua . Thế nhưng để hiểu một nền văn học trong mối quan hệ với cộng đồng đã sản sinh ra nó,người ta còn có thể đi vào nghiên cứu theo một hệ thống khác : quan niệm toát ra từ nền văn học đó về cái đẹp cái thực ,thậm chí cái không bình thường cái kỳ quặc ma quái... ? Đặc điểm của nền văn học đó bộc lộ qua việc sử dụng các phương thức như tự sự , trữ tình ? Quan niệm về một thể loại nào đó ( như thơ tiểu thuyết ) đã ổn định trong trường kỳ lịch sử ? Rồi quan niệm về việc phiên dịch các sáng tác từ các ngôn ngữ khác sang tiếng bản địa và câu chuyện giao lưu văn hoá nói chung v..v...
Trong trường hợp này , văn học được nghiên cứu theo cái cách người ta làm ra nó, cách này đặc trưng cho từng dân tộc và có sự phân biệt rõ rệt với các dân tộc khác .Đây cũng tức là nghiên cứu văn học từ cái nhìn của văn hoá học .
Sở dĩ có thể nói đây là một hướng nghiên cứu rất có triển vọng bởi lẽ , theo cách này , việc nghiên cứu văn chương trở thành một trong những phương cách tốt nhất giúp cho ngừơi ta hiểu một miền đất một xứ sở ,cũng tức là có thể có đóng góp vào việc tìm hiểu quá trình tự nhận thức của dân tộc. Vì nghĩ như vậy , chúng tôi mạo muội đi vào phác hoạ tư duy tự sự của người Việt. Đề tài quá lớn,dưới đây chỉ là một ít ghi chép sơ bộ còn tản mạn và chắp vá .

II

Các thể tự sự đã có mặt ngay trong văn học dân gian VN.Nhưng nếu nhìn chung đã có thể nói “trong văn hoá dân gian chứa đựng những phần mới chỉ là nguyên liệu của nghệ thuật chứ chưa phải là nghệ thuật “ ( 1)thì điều đó càng đúng với nghệ thuật tự sự .
Trong truyện cổ tích,nghệ thuật tự sự còn rất đơn sơ . Mỗi truyện thường chỉ ngắn gọn ,kể miệng với nhau độ mươi phút và mang in ra khoảng trên dưới ngàn chữ . Phần lớn các truyện này xoay quanh mối quan hệ giữa người nông dân nghèo với các loại nhà giàu trong làng (Cây tre trăm đốt ) hoặc nếu có mở rộng đến các loại vua quan thì mọi chuyện vẫn được hình dung thật giản dị , con đường đến với cung vua chẳng qua chỉ là chính con đường làng được kéo dài ra ( Ai mua hành tôi ) . Cũng có những cốt truyện khá rắc rối như Tấm Cám bao quát gần như cả một đời người nhưng không nhiều . Về mặt kết cấu mà xét , trong các truyện cổ tích này , cốt truyện thường phát triển theo đường thẳng . Nhân vật nhiều khi không có tên ,và địa điểm được nói tới cũng chung chung không cụ thể . Mô hình thế giới hiện ra trong truyện mang nặng tính cách ước lược đến mức tối giản .
So với cổ tích,các truyện cười là một bước tiến trong nghệ thuật tự sự .Ở đây người ta bắt đầu cảm thấy có một sự sắp xếp nào đó để lôi cuốn người nghe vào cuộc ,lại có một sự phân bổ chi tiết , lướt qua những đoạn mào đầu dừng lại lâu hơn ở những đoạn đối thoại có khả năng làm bật ra tiếng cười .Với việc xuất hiện những Trạng Quỳnh ,Trạng Lợn , Ba Giai Tú Xuất , truyện cười còn đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật tự sự với nghĩa vượt qua trình độ những mẩu nhỏ rời rạc để theo dõi những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời một con người và ghi chép được nhiều sự kiện có liên quan đến con người đó .Có điều cần lưu ý mặc dầu tương đối dài hơi nhưng Trạng Quỳnh vẫn chỉ có kết cấu đơn giản , những mẩu truyện nhỏ tồn tại cạnh nhau theo kiểu những viên gạch được lát liền nhau có thể kéo dài bao nhiêu cũng được mà rút ngắn lại cũng được . Hoặc có thể tạm ví đó là lối cấu trúc của con giun gồm nhiều đơn bào giống hệt nhau ,một đơn bào bị cắt rời ra khỏi cơ thể vẫn tiếp tục sống bình thường . Lối kết cấu như thế này tiện cho việc phổ biến theo lối truyền miệng nhưng không có triển vọng khi vận dụng nghệ thuật tự sự trên văn bản viết .


III

Theo Nguyễn Hiến Lê , văn nhân Trung Hoa thời cổ ít tưởng tượng mà hay thuyết lý . Nhờ đọc kinh Phật ,nhiều truyện tưởng tượng ,nên họ mới bắt chước lối viết truyện của Ân độ ( 2 )
Bà Pearl Buck ,khi bàn về tiểu thuyết Tàu nói một ý tương tự :Các nhà giảng đạo Phật cũng công nhận rằng muốn cho dân hiểu đến thần thánh thì không gì bằng tả cho họ là thần thánh cũng khó nhọc căm cụi chân lấm tay bùn như họ ( 3 )
Đây có lẽ là một ví dụ cho thấy vai trò của tôn giáo đối với sự phát triển của tư duy tự sự .
Cũng theo Nguyễn Hiến Lê ,ngay từ đời Tống ở Trung quốc đã xuất hiện một nghề lạ là nghề kể chuyện giống như các trouveres thời trung cổ bên Pháp.Hạng người đó có tài ăn nói đi từ phố này tới phố khác,vào trong xóm làng đông đúc , các chợ kể truyện,và người ta bu lại nghe, đáp công bao nhiêu tuỳ ý ( 4 ) . Lịch sử văn hoá Trung quốc của nhóm Đàm Gia Kiện thì ghi rõ “ở Biện Kinh có trường sở kể chuyện tương đối quy mô “ và “ nghệ nhân không những có sự phân công tỉ mỉ,họ còn tổ chức thành thư hội “ ( 5 )
Các nghệ nhân trên thường bắt đầu câu chuyện bằng cách thắp một nén hương lên và đến khi nén hương tàn thì câu chuyện của họ cũng chấm dứt .
Cho đến gần đây,các nhà viết tiểu thuyết Trung Hoa còn coi mình cũng có vai trò tương tự như vai trò của đám nghệ nhân ấy và thích thú nhắc lại nghi thức xưa .Chẳng hạn trường hợp Trương Ai Linh một nhà văn Hồng Kông rất nổi tiếng ở Anh Mỹ từng gọi mấy thiên truyện của mình là Lư trầm hường thứ nhất , Lư trầm hương thứ hai Xin bạn hãy tìm lấy một chiếc lư hương đồng gia truyền đã đốm mốc xanh đốt lên bình trầm hương nghe tôi kể về Hương Cảng trước chiến tranh .Khi lư trầm hương của bạn cháy hết câu chuyện của tôi cũng sẽ kết thúc “.Một trong hai thiên truyện nói trên dẫn người đọc vào truyện bằng đoạn văn như vậy ( 6 ) .
Đến nay chưa thấy có tài liệu nói có sự xuất hiện của loại nghệ nhân nói trên trong đời sống văn hoá người Việt.Những cuộc trò chuyện được hình thành ngẫu nhiên , người nào cũng là người nghe mà cũng có thể là người đứng ra kể truyện,nhưng do không ai sống hẳn bằng việc kể truyện ấy và nâng nó lên thành nghề,nên nghệ thuật tự sự nói chung không phát triển lên được.Trong khi ở Trung Hoa nghệ thuật tự sự dân gian được ghi chép lại chỉnh lý sắp xếp lại thành những pho sách dài như Tam quốc chí Thuỷ Hử thì ở ta chỉ có Trạng Quỳnh ,Trạng Lợn.
Nói một cách khái quát,nghệ thuật tự sự có liên quan nhiều đến trình độ phân hoá ngành nghề và nói chung là sự phát triễn của đô thị trong lòng xã hội.Nhưng cả hai yếu tố trên (sự phát triển của tôn giáo và sự phát triển đô thị ) không phải là mặt mạnh của xã hội VN thời trung đại . Nếu tính đến yếu tố chữ viết để ghi chép và cố định tác phẩm về mặt văn học thì sự thua thiệt của tự sự càng hiện ra rõ rệt .


IV

Truyện Kiều là một đỉnh cao nghệ thuật VN nói chung với nghĩa khi cần hình dung ra một con người VN cụ thể với cách xúc động cách suy nghĩ những quan niệm tổng quát về cuộc đời này ,người ta nghĩ ngay đến cô Kiều , và ở chỗ này , cái việc “ không ai còn muốn nhớ thật ra Kiều là một người Tàu sống ở thời Gia Tĩnh triều Minh “ là không có gì đáng trách ,đằng sau các chi tiết chỉ có tính cách hình thức kia là một tâm hồn VN thực thụ .
Cũng nhờ thế có thể nói với Truyện Kiều,văn học VN có được một thành tựu chói lọi,nó đã đáp ứng được cái nhu cầu thiết yếu là nắm được cái thần của con người VN và kể ra một cách sinh động .
Thế nhưng,khi nói về thành tựu của nghệ thuật tự sự ở tác phẩm này,không được phép quên nó được chuyển thể từ cuốn sách của Thanh Tâm tài nhân ,nghĩa là mọi tài năng của tác giả chỉ bộc lộ ở việc kể chuyện một cách gọn ghẽ tinh tế tước bỏ mọi chi tiết thô thiển không cần thiết vốn có trong nguyên bản , ngoài ra không có thay đổi gì đáng kể về mặt cốt truyện . Mà cốt truyện thì biết bao trọng yếu đối với tác phẩm tự sự : ngay khi chỉ được xem như một bộ khung cần được đắp thêm chi tiết mới trở nên sinh động thì cốt truyện đã là một cách hình dung về đời sống,tức một yếu tố đánh dấu trình độ hiểu biết của xã hội về mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh cũng như giữa con người với nhau . Mỗi khi nói đến Truyện Kiều,thường ít ai đả động tới tác phẩm trên phương diện tự sự -- lý do là vì như vậy (7 ).
Xuất hiện trước và sau Truyện Kiều , nhiều truyện nôm dân gian và bác học sáng tác trong thời trung đại đều có lối tổ chức cốt truyện tương tự theo kiểu “ hội ngộ --lưu lạc --đoàn viên “ và khi muốn nhận xét về các cốt truyện này người ta chỉ có thể nói nó đơn giản hơn là phức tạp , gọn ghẽ thoáng đãng hơn là nhiều tầng nhiều lớp bề bộn phong phú .Nói chung , cốt truyện trong các truyện nôm thường chỉ loanh quanh trong một đời người trói tròn trong quá trình lập nghiệp hay mưu cầu hạnh phúc của một cá nhân cụ thể mà không bao giờ bao quát được nhiều thế hệ của một dòng họ để thấy sự phát triển liên tục của con người trong một thời gian dài và số nhân vật có liên quan thường cũng chỉ trên dưới mươi người , chứ chưa bao giờ triển khai ra tới hàng trăm nhân vật như ở các tác phẩm tự sự đồ sộ của những nền văn học lớn. (8 )

V


Sự biến chuyển của văn học VN thế kỷ XX là sự chuyễn biến sâu xa của cả một mẫu hình sáng tạo : từ nay mọi mặt quan niệm của chúng ta về văn chương đều đã khác đi . Không phải ngẫu nhiên trong nền văn học trung đại,vị trí trọng yếu thuộc về các thể trữ tình. Trong phạm vi một xã hội gồm nhiều làng xóm độc lập manh mún tồn tại bên nhau , và cả xã hội chưa tạo dựng nổi một mặt bằng văn học thống nhất,thì sự sáng tác dễ dừng lại ở trình độ nói ra để thoả mãn nhu cầu nội tâm của chính chủ thể hơn là tìm cách tác động tới các đối tượng khác . Ngược lại , giờ đây xã hội được tổ chức lại thành một thực thể có trình độ tổ chức cao hơn và sự sáng tác được xã hội hoá theo nghĩa trực tiếp và cụ thể hơn ,nói nôm na là người ta viết văn làm thơ không phải chỉ để tự vui với mình mà phần nhiều là để đăng báo in sách .Trong hoàn cảnh ấy , các thể văn tự sự có chiếm một tỷ trọng cao hơn so với trước kia thì cũng là điều dễ hiểu .
Có thể nói trước khi có Phong trào Thơ mới , sự trưởng thành của nghệ thuật tự sự là kịch bản chủ yếu của những thay đổi đã đến trên phương diện hình thức mà nền văn học đầu thế kỷ đã trải qua. Trên bước đường xây dựng nền quốc văn mới ,các nhà văn lúc ấy thể nghiệm đủ các hình thức tự sự học được từ nước ngoài . Hoặc đó là học của Trung Hoa : nên nhớ rằng trong suốt trường kỳ lịch sử các truyện Tàu được nhà nho xưa đọc thẳng từ nguyên văn ; chỉ đến giai đoạn này do có chữ quốc ngữ , chúng mới được diễn nôm tức là phiên dịch cho mọi người biết đọc biết viết có thể đọc và chính những truyện Tàu này đã đóng vai trò gợi ý để hàng loạt tiểu thuyết cỡ như Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân ,Hà hương phong nguyệt ,Đỉnh núi cành mai ,Tiếng sấm đêm đông ...được viết ra cho người mình đọc . Nhưng ảnh hưởng lớn hơn và kéo dài hơn là thuộc về nghệ thuật tự sự của phương Tây mà mặc dù mới lần đầu làm quen nhưng nhiều người thấy hình như hợp với tâm lý người Việt hơn.Việc tập tành viết theo lối mới được triển khai từng bước mò mẫm nhưng chắc chắn và không loại trừ cả một việc các cụ xưa thường vẫn làm là vay mượn cốt truyện .Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh là tác phẩm phóng tác từ Không gia đình của Herto Malot .Ngọn cỏ gió đùa của cùng một tác giả xây dựng cốt truyện bằng cách dựa vào Những người khốn khổ của V.Hugo. Sống chết mặc bay là một cách mô phỏng từ Ván bi-a của A.Daudet -- ấy là chỉ kể những tác phẩm vay mượn rõ rệt, còn số cảm đề lấy gợi ý từ tác phẩm xứ người thì nhiều vô kể.Lấy một ví dụ,chắc không phải là khiên cưỡng nếu nói rằng Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài là có họ hàng xa gần với Tê-lê-mạc phiêu lưu ký của Fénelon do Nguyễn Văn Vĩnh mang vào tiếng Việt . Lý do ở đây khá rõ ràng : trước đó ở ta chưa ai tính chuyện ghi lại những chuyện phiêu lưu bao giờ và hình như khái niệm phiêu lưu cũng rất ít được sử dụng . Từ sự tiếp xúc với sách vở xứ người rồi từ đây một số mô - típ của nghệ thuật tự sự phương Tây như sự phiêu lưu mới được Việt hoá rồi trở nên quen thuộc đến mức ta quên cả xuất xứ của nó và ta tưởng rằng từ ngàn xưa đã có các thể ghi chép ấy .


VI

Trong sự thay đỗi chung của các quan niệm văn học như trên đã nói ,lẽ tự nhiên là cái cách tự sự cũng có thay đổi . Với việc có ngay một trường thể nghiệm là báo chí và xuất bản,từ nay nghệ thuật viết truyện thoát ly hẳn lối kể truyền miệng mà tìm tới một trường phô diễn mới là trang giấy trắng . Trên các trang sách giờ đây không còn lồ lộ bóng hình người đứng ra kể chuyện như xưa mà lúc này vai trò của tác giả là dựng nên khung cảnh để người đọc như được nhập ngay vào không khí trong truyện .Hình thức tự sự cũng ngày càng trở nên phức tạp , điều này có thể thấy rõ ở hai điểm một là thay cho lối kể trước sau tuần tự dễ gây cảm giác tẻ nhạt nay các tác giả thường hay nhảy ngay vào giữa sự kiện mà miêu tả để gợi không khí tiếp đó mới quay về những nguyên nhân ban đầu ; và hai là không lan man rải ra mỗi chỗ một tí mà chỉ tập trung vào một vài sự kiện có tính cách tiêu biểu ,nhờ thế cái nhìn của độc giả tập trung hơn mà cũng sâu sắc hơn . Thử đọc lại truyện Cô hàng xén của Thạch Lam : câu chuyện bắt đầu bằng cảnh cô Tâm đi chợ về tiếp đó mới ngược lên kể gia cảnh nhà nàng và vai trò của nàng trong gia đình . Rồi tiếp theo đó là chuyện cô Tâm lấy chồng và phải đảm đang công việc bên nhà chồng nhưng tất cả những chuyên này được lướt qua rất nhanh để cuối cùng nhấn mạnh cái ý đời nàng ngày một khó khăn vất vả hơn và cuộc sống cứ thế mà kéo dài mãi. Đọc loại truyện này , giờ đây,với tư cách người đọc của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI,chúng ta không lấy làm lạ.Nhưng thử đối chiếu với thi pháp tự sự thời trung đại phải nhận đây là cả một bước rẽ ngoặt .
Phương thức tự sự này đã hình thành ở phương Tây từ nhiều thế kỷ trước , đến thế kỷ XIX thì trở nên thành thục,các nhà văn Việt Nam đã học được rất nhanh để tạo ra một chuyển biến mới cho đời sống văn học , và chỉ cần nhìn vào sự trưởng thành của tiểu thuyết đủ hiểu nghệ thuật tự sự ở Việt Nam thế kỷ XX đã thay đổi như thế nào. Ơ chỗ này trường hợp của Việt Nam cũng là trường hợp của nhiều quốc gia khác ở phương Đông bao gồm từ các nước A rập tới các nước ở Đông Nam Á và cả Trung quốc nữa .


VII


Thế nhưng trong khi vận dụng phương thức tự sự mới , những đặc điểm riêng trong tư duy tự sự của VN các thế kỷ trước vẫn bộc lộ , như những cá tính ở một con người,dù hoàn cảnh có thay đổi đến đâu thì những nết xưa vẫn giữ mãi .
Khi bàn về tiểu thuyết VN ,các nhà văn ở ta thường nhấn mạnh tới tính chất gọn ghẽ cô đúc của nó, nét nó thanh , các đường dây phát triển của nó rành mạch .Thực tế là khoảng đến 90% tiểu thuyết Việt Nam là những cuốn sách ba bốn trăm trang gì đấy . Xưa đã không có những pho nọ pho kia thì ngày nay cũng rất hiếm những tiểu thuyết dày tới trên dưới ngàn trang .Vả chăng cái tư duy tự sự trong cuốn sách mới là chuyện đấng nói . Có thể gọi Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi , Sóng gầm của Nguyên Hồng là những bộ trường thiên tiểu thuyết roman fleuve và nếu biết rằng những tác phẩm này chỉ có thể hình thành từ gợi ý của những Gia đình họ Thibault của R.Martin du Gard hoặc Con đường đau khổ của A.Tolstoi thì vẫn có thể ghi nhận đây là một bước tiến trong việc tiếp nhận nghệ thuật tự sự phương Tây . Nhưng nhìn kỹ thì thấy những Vỡ bờ ,Sóng gầm được triển khai theo chiều rộng kèm theo một khối lượng nhân vật lớn song chưa thể nói là đạt tới một trình độ mới trong việc bao quát hiện thực .Theo ý chúng tôi loại như Nửa đêm của Nam Cao hoặc Giọt máu của Nguyễn Huy Thiệp đáng chú ý hơn vì thời gan được miêu tả trong mỗi truyện kéo dài tới mấy đời người , để rồi hé ra cho thấy mối quan hệ oan nghiệt của các thế hệ trong một dòng họ . Đó là một cách hình dung về sự liên tục của cuộc sống trên cõi nhân gian ,một sự liên tục theo chiều dọc vốn là ít thấy trong cách tư duy của người bình thường ở ta , và lại càng ít khi được miêu tả trong văn chương . Có điều phải nhận là cả hai loại truyện nói ở trên ( cả lối trải ra theo bề rộng lẫn lối biết nhìn nhận đời sống ở những mối liên hệ nhiều đời trong một dòng họ) đều đang quá ít đến mức chưa thể qua đây nói gì về trình độ tự sự nói chung của cả nền văn học,dù đó là thời hiện đại .


VIII

Một khía cạnh khác của nghệ thuật tự sự là khả năng của người kể chuyện trong việc nhìn sâu nhìn kỹ vào một sự vật tả nó ra một cách tỉ mỉ ,tức cũng là khả năng dừng lại kỹ càng ở sự vật đó tìm thấy cho mình một sự hứng thú trong việc nhìn ngắm nó và cảm thấy ở nó một bí mật có thể tìm hiểu mãi mà không chán . Khi bàn về Tính cách văn chương Việt Nam trước thời Au hoá một trí thức khá nổi tiếng thời kỳ 1941-1945 là ông Đinh Gia Trinh đã viết “...Văn chương Việt Nam thiên về sự diễn hoặc ngụ những tư tưởng luân lý và sự tả những niềm riêng của một người . Nó đi vào trong tâm người ta hơn là nó vơ ấp lấy tạo vật .Tả tỉ mỉ một căn phòng một sắc trời một thân thể người như các nhà văn tả chân bên Tây phương ? Không! Ơ văn thuật Việt Nam khi xưa không có chỗ cho tài nghệ của một nhà tiểu thuyết tựa Balzac dành một trang sách để tả cái mặt ngộ nghĩnh của một nhân vật trong truyện Le cousin Pons , hoặc như Flaubert dẫn ta qua những bụi cây bên đường , dán mắt ta qua khe cỏ để cho ta mục kích mấy con nhện xôn xao chạy trên mặt nước “ ( 9 ) .Về căn bản những nhận xét trên đúng với nghệ thuật tự sự Việt Nam thời trung đại . Bước sang thế kỷ XX , các nhà văn chúng ta đã cho phép chúng ta nghĩ khác .Có thể dẫn ra chân dung của những Chí Phèo Thị Nở Lang Rận ở Nam Cao để thấy bây giờ chúng ta đã nhìn kỹ vào gương mặt của nhau nhiều hơn hoặc nhớ lại vài đoạn phân tích tâm lý của Nguyễn Tuân trong các tập tuỳ bút để thấy văn chương đã tiến khá xa trong việc phanh phui đời sống bên trong của con người .Song phải nhận tình hình tiểu thuyết VN hiện đại cũng giống như tình hình bên hội hoạ . Người vẽ ở ta có vẻ thạo các loại phác hoạ hay màu nước hoặc thích làm tranh sơn mài lộng lẫy.Còn như nghệ thuật sơn dầu đặc tả thật kỹ từng sắc thái của sự vật,thì kinh nghiệm chưa nhiều và hình như các hoạ sĩ cũng khồng thích làm nữa . Đi sâu hơn vào kỹ thuật tự sự : trên thế giới ngày nay , bên cạnh lối trần thuật chỉ sử dụng có một điểm nhìn bắt đầu thấy thịnh hành lối tự sự có nhiều điểm nhìn . Đằng sau một chuyện thuần tuý kỹ thuật như thế này là cả một triết lý ;có vẻ như nhờ được nhìn từ nhiều góc độ , thế giới hiện ra trong tác phẩm gần với thế giới thực hơn.Thế nhưng ngay ở thời điểm bắt sang một thiên niên kỷ mới kỹ thuật này với người trần thuật ở VN và với đông đảo bạn đọc nói chung còn đang là một cái gì xa lạ.Người viết văn ở ta không mấy khi bàn bạc kỹ với nhau về các vấn đề kỹ thuật nghề nghiệp và đối với kỹ thuật tự sự thì tình hình cũng là tương tự .



IX


Tìm hiểu tư duy tự sự suy cho cùng tức là tìm hiểu cách hình dung của một dân tộc về cuộc đời với tất cả bề rộng và bề sâu của nó mà họ có được trong quá trình sống , bởi vậy nó còn liên quan đến ít nhất mấy khu vực nữa một là khoa nghiên cứu lịch sử và hai là cách hiểu về cái thực đã trở thành truyền thống trong nền văn học của dân tộc đó. Mà các phương diện này ở ta thì như thế nào ?
Nghề chép sử VN thời trung đại ít phát triển và sự thực là mỡi chỉ có một vài bộ thông sử ghi chép hoạt động của các triều đại các vua chúa , ngoài ra chưa có sử hay đúng hơn gần như chưa bao giờ nghĩ tới chuyện có những bộ sử đi vào các mặt sinh hoạt cụ thể các tầng lớp cụ thể , ví dụ lịch sử nghề nông , lịch sử đê điều , lịch sử trí thức,lịch sử tôn giáo....và hàng ngàn loại lịch sử khác như ở một nước cạnh ta là Trung quốc họ đã làm . Sang thời hiện đại ,một số công việc loại trên mới được bắt đầu song lại chẳng có tài liệu gì nhiều để làm việc .Đến như các loại lịch sử ăn mày lịch sử cờ bạc lịch sử kỹ nữ... ( 10 ) chắc chắn ở VN không ai dám nghĩ tới việc viết như các đồng nghiệp ở Bắc Kinh Thượng Hải : Lâu nay trong quan niệm của ông cha ta đây là những sự thực không đáng ghi chép thì người hôm nay biết dựa vào đâu để viết ? Và do chỗ hôm nay cũng khồng ai nghĩ chuyện ghi chép nên năm mươi năm sau cũng sẽ không ai viết nổi!
Sở dĩ chúng tôi nhấn mạnh tới khoa chép sử vì ở nhiều nước , thực tế lịch sử chính là cái nguồn vô tận cung cấp đề tài và cốt truyện cho sáng tác .
Bởi tự sự là kể về đời thực,cho nên lẽ tự nhiên là quan niệm về cái thực của một dân tộc có vai trò chi phối đối với nghệ thuật tự sự ở dân tộc ấy.Thành thử chỉ cần nhớ lại một nhận xét cho rằng cái thực trong văn chương cổ điển VN không phải là cái thực khách quan mà là cái thực của tâm do nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu nêu lên ( 11 ) thì người ta đã có một cứ liệu vững chắc để giải thích tình trạng yếu kém đơn điệu của nghệ thuật tự sự ở VN thời trung đại và tình trạng phát triển ngập ngừng của nó trong thời hiện đại .Cố nhiên đối với nghệ thuật trữ tình thì phải nhận định một cách khác ./.


Chú thích

(1)Đinh Gia Khánh và Chu Xuân Diên Văn học dân gian , ,NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp H. 1974 , t.II , tr .70
(2)Nguyễn Hiến Lê Sử Trung quốc NXB Văn hoá H. 1997 , t.I ,tr . 351
(3)Pearl Buck ,Lê Đình Chân dịch Tiểu thuyết Tàu ,tạp chí Thanh Nghị 1944 từ số 83 trở đi
(4) Như (2) ,t .II ,tr.67
(5) Đàm Gia Kiện chủ biên Lịch sử văn hoá hoá Trung quốc Trương Chính ,Nguyễn Thạch Giang Phan Văn Các dịch NXB Khoa học xã hội H. 1993 , tr .277
(6)Trương Ai Linh Hoa hồng trắng hoa hồng đỏ ,NXB Phụ nữ H. 2001, tr.7
(7)Chú ý là trong văn học cổ điển VN còn nhiều trường hợp có sự vay mượn cốt truyện từ văn học Trung quốc như Truyền Kỳ mạn lục , Ngọc Kiều Lê hoặc về sau một chút là Đào hoa ký...
(8)Câu chuyện trong Hoàng Lê nhất thống chí có thể bao quát mấy đời vua và số lượng nhân vật ở đây cũng khá lớn . Nhưng đây là do nhu cầu của việc ghi lại lịch sử chứ không liên quan đến tư duy tự sự .
(9)Đinh Gia Trinh Tính cách văn chương VN trước thời Âuu hoá tạp chí Thanh Nghị 1941 số 2-3 ,in lại trong Hoài vọng của lý trí NXB Văn học 1996 ,tr.27
(10)Đây là một xê-ri sách được NXB Trẻ TP HCM cho dịch in trong năm 2001
(11) Trần Đình Hượu Thực tại cái thực và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học VN trung cận đại in trong Nho giáo và văn học VN trung cận đại NXB Văn hoá thông tin H.1995 tr.443 .

Không có nhận xét nào:

SỐ TRUY CẬP