Nói chuyện với nhà phê bình Vương Trí Nhàn về tình hình tiếp nhận văn hóa nước ngoài tại Việt Nam

“Xác nhận ảnh hưởng để rồi tìm ra chính mình, tách mình khỏi người”



Những năm gần đây, vấn đề tiếp nhận văn hóa nước ngoài tại Việt Nam trở thành đề tài suy luận của nhiều trí thức, văn nghệ sĩ trong nước. Bên cạnh bề mặt lạc quan của một xã hội mở cửa, giao thương với nước ngoài, Việt Nam còn bộc lộ một bề trái khép kín, co lại luôn luôn nhấn mạnh đến những yếu tố bản sắc, bản địa, trên các văn bản chính thức và trong sách vở học đường. Nhiều câu hỏi được đặt ra về hiện tình này, về sự tiếp nhận văn hóa và hậu quả của nó. Trong hai buổi nói chuyện trên đài RFI ngày 25/6 và 2/7 vừa qua, nhà phê bình Vương Trí Nhàn, ở Hà Nội, đã thẳng thắn bày tỏ những trăn trở của một người làm văn học hôm nay, đối với những vấn đề nhức nhối, bức thiết mà ông đã lưu tâm suy nghĩ từ nhiều năm qua.

T. K.



Thụy Khuê: Thưa anh Vương Trí Nhàn, tại sao vấn đề tiếp nhận văn hóa nước ngoài lại cần được đặt ra hôm nay, trong lúc này?

Vương Trí Nhàn: Theo tôi bởi vì nó liên quan đến những vấn đề lớn hơn, có thể nói là những vấn đề lớn nhất của xã hội hiện nay. Sau chiến tranh, sau những năm tháng loay hoay hồi phục lại một cuộc sống bình thường, nay đến lúc xã hội Việt Nam nghiêm túc đặt ra việc xây dựng đất nước, chúng ta đang phải đối mặt với những câu hỏi như: Ta là ai? Ta có đi cùng với thế giới? Xã hội ta có phát triển theo những quy luật chung của thế giới hay có một con đường riêng của Việt Nam? Ta đang ở trong tình trạng như thế nào? Phải tìm những yếu tố mới ở đâu? Thế nào là mới? Ta sẽ làm lại chính ta, làm lại xứ sở ta ra sao? Theo tôi, trong tất cả những vấn đề lớn của một xã hội như thế, thì có vấn đề tiếp nhận mà mọi người cần phải quan tâm, tìm cách đánh giá lại, vì nó sẽ là một yếu tố thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.



TK: Vậy thì trước tiên xin anh một cái nhìn sơ bộ về hiện tình tiếp nhận văn hóa nước ngoài hiện nay ở Việt Nam.

VTN: Nhìn qua bề ngoài đã thấy ngay là khá hỗn loạn. Ðối với một người ở lứa tuổi như tôi (năm nay hơn 60), khi nhớ lại Hà Nội những năm chiến tranh, thì hình dung ngay là đất nước thu mình lại, khép kín, không quan hệ với ai, không có khách nước ngoài trên đường, trên báo chí gần như không có tin tức quốc tế, trong văn chương việc dịch và giới thiệu nước ngoài rất hạn chế. Ngày nay thì cởi mở hơn: hằng ngày chúng tôi được tiếp xúc với những tin tức mới nhất của nước ngoài về chính trị, xã hội, về văn hóa. Giải Nobel vừa công bố chúng tôi biết ngay. Giải Oscar được truyền hình trực tiếp. Hằng ngày trên màn ảnh Hà Nội, đầy rẫy phim Hàn Quốc, phim Trung Quốc... có khi cùng một lúc mở hai ba kênh thấy cùng là phim nước ngoài cả! Rồi nó ảnh hưởng vào đời sống hằng ngày. Dưới chân các cô gái Hà Nội là đủ loại giày dép đủ loại guốc của thế giới, nhìn thấy lạ, hỏi kỹ thì ra mới du nhập, nói nôm na là được nhặt nhạnh từ đủ mọi khu vực mọi xứ sở mà ngẫu nhiên họ được biết. Quần áo ăn mặc cũng thế. Mới đây tại một vùng ngoại thành Hà Nội tôi đang sống cũng có cửa hàng chụp ảnh kiểu Hàn Quốc. Học sinh, sinh viên, qua phim ảnh, thuộc sử Trung Quốc hơn cả sử nước mình. Thậm chí tôi còn muốn nói là trong tâm lý con người – trước tiên là người trên đất Hà Nội, nơi tôi cũng đang sống – có một sự vọng ngoại sâu sắc. Nếu có ai đó ở chỗ riêng tư thử khái quát “cái gì của nước ngoài chẳng tốt hơn của mình?!” thì dường như ai cũng nghĩ là “chuyện đương nhiên, “ “nói cứ như thật”, không ai phản đối.

Nhưng đó chỉ là một phần sự thực. Ðồng thời với lối vọng ngoại đến không thể chấp nhận được thì trong tâm lý con người lại có một sự từ chối. Thực chất là bên trong vẫn có cái vẻ ngập ngừng e dè khi xem xét người, rồi dẫn đến co lại, khép kín. Có lẽ là do tự ti, lại do choáng ngợp trước một thế giới xa lạ nên rất sợ bị cuốn theo người ta. Phải cố gồng mình lên mà chống đỡ, tuy lại thừa biết là không chống lại nổi. Và sự tự ti này dẫn tới những nỗ lực tự tô vẽ ngây thơ, một thứ tự tôn kỳ cục. Trên các tài liệu chính thức hoặc trong các bài học ở nhà trường, yếu tố bản địa, bản sắc luôn luôn được nhấn mạnh. Ngụ ý đằng sau sự nhấn mạnh đó: chúng ta chỉ kém người về kinh tế thôi, chứ không kém gì về văn hóa; ta giao lưu đàng hoàng; ta đứng ngang hàng với thiên hạ. Vừa nói vấn đề hội nhập xong thì phải lập tức nói ngay là “hòa nhập chứ không hòa tan”. Tôi cho rằng những cái đó nó biểu hiện một tâm lý văn hóa chưa trưởng thành, nếu nhìn xa hơn nữa thì có thể nói rằng đó là do xã hội hôm nay không có khả năng tự nhận thức về mình. Không sử dụng được những tiêu chuẩn chung của thế giới. Tự hạ thấp chuẩn mực xuống, để có “số đo” không kém gì người. Của người ta một thước là 100cm thì của mình có khi một thước chỉ là 80cm, có khi 70cm thôi! Tức là tự tạo ra những tiêu chuẩn riêng cho mình, coi mình như một ngoại lệ. Nói chung việc nghiên cứu về nước ngoài rất kém. Sách báo tài liệu dịch, bề ngoài có thể là cũng rất ồn ào, nhưng thực ra khả năng tiêu hóa thấp.

Việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài ở Việt Nam hiện nay tóm lại có thể quy vào mấy điểm: Thiếu một sự định hướng rõ ràng, thông minh, khoa học. Thiếu một trình độ đánh giá phân biệt tốt xấu nên nhiều khi cái hay không học, lại học cái dở. Vừa không muốn học người ta, lại vừa không thể bỏ được người ta. Dẫn đến tình trạng là nói một đằng làm một nẻo là hằng ngày cứ bắt chước, hằng ngày cứ nói là giữ gìn bản sắc và đồng thời cứ học đòi học lỏm, việc học hỏi chắp vá nửa chừng đó không giúp chúng ta cải thiện tình hình của chính mình.



TK: Nếu tìm lại nguồn cội của tình trạng này thì có lẽ nó đã có từ lâu, từ những thế kỷ trước, từ khi chúng ta du nhập văn hóa Trung Hoa. Theo anh, chúng ta đã tiếp nhận nền văn hóa Trung Hoa như thế nào?

VTN: Câu chuyện này dài lắm, tôi chỉ xin nói sơ sơ mấy điểm. Trên đại thể, chắc chắn đây là một món nợ. Chừng nào chúng ta chưa sòng phẳng được với văn hóa Trung Hoa, tức chưa tách mình khỏi thế giới Trung Hoa, thì còn là khổ là lúng túng, thậm chí tôi còn muốn nói là chưa nên người để sống đàng hoàng với thế giới.

Trở lại chuyện xưa mà chị vừa nói. Trong quan hệ với văn hóa Trung Hoa, tôi thấy cái gì ta cũng học mà lại chỉ học được cái phần nông nổi bề mặt, bởi vậy đã học rất nhiều rồi mà xem kết quả lại thấy quá ít và điều đáng sợ nữa là cứ bị ám mãi bởi những cái dở của người ta. Trước tiên chúng ta không học được cách tổ chức xã hội của họ, cũng như không học được văn hóa xây dựng đất nước của họ. Người Tàu không những giỏi về chinh chiến mà còn giỏi cả kinh tế nữa, còn nghề buôn bán ở ta thì quá non nớt. Hay nói về việc tiếp nhận tư tưởng, khi học đạo Nho thì ta học nhiều cái giáo điều, học nhiều nguyên tắc, những chữ như chữ Nhân, chữ Lễ, chúng ta áp dụng rất triệt để. Thế nhưng trong đạo Nho còn có những khía cạnh rất tốt đẹp, ta lại không học được. Thuyết chính danh trong đạo này vốn rất quan trọng. Xét một câu “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” đằng sau cái nghĩa cụ thể “vua phải ra vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha và con phải ra con”, theo tôi hiểu ở đây người ta còn muốn nhấn mạnh: cái gì cũng phải được quy phạm hóa, phải đạt tới chuẩn mực. Mà cái đó ta không học được. Cái gì chúng ta cũng là chín bỏ làm mười, thậm chí năm sáu cũng là mười, ba bốn cũng là mười. Hoặc tinh thần thực sự cầu thị của đạo Khổng Mạnh. Gần đây ta hay nói đến tinh thần “tôn sư trọng đạo”, thầy làm cái gì thì học trò phải theo. Có nhiều anh em làm khoa học hôm nay thấy thầy sai cũng không dám nói. Sợ. Lảng. Bênh liều, bênh lấy được. Thế mà nếu đọc Luận Ngữ, sẽ thấy trong thiên Vệ Linh Công, có một câu rất hay: “Ðương nhân, bất nhượng ư sư” nghĩa là “làm việc nhân thì dẫu thầy mình, mình cũng không nhường”. Thế tức là đặt vấn đề khoa học lên trên vấn đề thầy trò, hơn cả vấn đề tình nghĩa. Tôi cho đó là một cái gì rất đáng để cho những người làm công tác nghiên cứu và giáo dục hiện nay lưu ý, để tránh tinh thần bảo thủ lạc hậu: người sau nem nép đứng sau người đi trước, không bao giờ dám đổi mới gì cả.

Một điểm nữa có những cái kém cái dở của văn hóa Trung Hoa, người ta nghĩ ra và làm đến cùng một hồi, rồi bỏ hẳn, bỏ đứt ngay được (như nhiều điểm bảo thủ trong Nho giáo, như phần chủ yếu trong tư tưởng Mao Trạch Ðông), mà ta thì cứ theo dây dưa quyến luyến mãi, thế mới khổ!

Nhìn chung lại việc học hỏi Trung Quốc, chúng ta chưa có sự tiếp nhận tốt. Theo tôi biết, ví dụ như Nhật chẳng hạn, học Trung Quốc là họ sang tận nơi họ học, lấy bằng rồi họ mang về nước thực hiện đúng như thế đã, rồi sau đó họ mới làm khác đi. Nghe nói là giữa Nhật Bản và Trung Quốc thời xưa còn có cả một con đường sách, giống như con đường tơ lụa, chỉ khác là một đằng trên biển, một đằng trên bộ. Còn ở ta thì những kinh nghiệm học Trung Quốc thường là qua những ông sứ, đi sang bên ấy, học ké học tắt, học không đến nơi đến chốn, rồi về nhà áp dụng thì lại tam sao thất bản đi một lần nữa. Tôi nhớ, lâu rồi, giáo sư Trần Ðình Hượu đã nói đại ý: “Chúng ta ở với người Trung Quốc lâu thế mà nước ta không có ai giỏi về Trung Quốc học, thực chất là không có một khoa Trung Quốc học ở Việt Nam”. Tôi cho đây là một khái quát có thể mở rộng: Chúng ta đi ra với thế giới mà chẳng hiểu gì về thế giới cả!



TK: Sang đến thời kỳ Pháp thuộc, anh nhận thấy những đặc điểm gì trong sự tiếp nhận nền văn minh Tây phương của chúng ta?

VTN: Trong thời gian đầu, khi những người phương Tây mới đến Việt Nam, thì chúng ta có một thái độ kỳ thị lạ lùng, coi rằng họ là một cái gì man di mọi rợ, phi văn hóa, bởi bấy giờ chúng ta chỉ biết Tàu thôi và không biết đến cái gì khác cả (riêng một cuốn sách như Tây dương gia tô bí lục đã là một bằng chứng thú vị). Sau này, khi nền thống trị của người Pháp đã được xác lập và chúng ta phải chấp nhận sự chuyển đổi sang nền văn hóa theo kiểu phương Tây, cũng đã thấy có nhiều cái tiếp thu thông minh, nhạy cảm, có những thành tựu như của Thơ mới hay của tiểu thuyết, là những cái đến bây giờ còn có thể tự hào. Nhưng còn nhiều điều đáng lẽ ra chúng ta có thể làm tốt hơn được. Ví dụ, theo tôi phải thấy ngay từ hồi ấy, sự tiếp nhận tư tưởng đã rất hạn chế, các nhà tư tưởng lớn của phương Tây chưa được dịch, từ đó tạo nên tình trạng thiếu cơ bản trầm trọng. Trong mạch tiếp nhận văn học, thì việc tiếp nhận những ảnh hưởng tiểu thuyết khá tiêu biểu. Do chỗ thấy ngay rằng đây là một công cụ có thể giúp cho việc giáo dục dân chúng, tổ chức xã hội, cho nên những người cầm bút nhanh chóng học “làm” tiểu thuyết. Thế nhưng ở đây cũng lại bộc lộ một tinh thần thực dụng rõ rệt, tức là cắm cúi mà học, học vội học vàng, học không bài bản, không chú ý gì đến lý luận cả. Vừa đây tôi có viết một bài về Nguyễn Công Hoan và thể tiểu thuyết, in trên tạp chí Nghiên cứu văn học trong đó nói: Tác giả Bước đường cùng lạ lắm, lúc nào cũng thích tự nhủ người Việt thì phải viết theo kiểu Việt, để rồi vừa đọc qua mấy quyển tiểu thuyết loại như của Alexandre Dumas đã thấy “nắm” được, thế là bỏ dở không đọc nữa, xoay đi viết. Về già, trong hồi ký, chính Nguyễn Công Hoan cũng nhận là “dạy non” tức là chưa thuộc, thì đã bắt đầu vào làm, và làm với một tâm thế tự tin quá mức. Ðây không phải trường hợp riêng của Nguyễn Công Hoan mà là của nhiều người khác. Thành thử tiểu thuyết của chúng ta như chữ của Nguyễn Triệu Luật trong một bài viết trên tờ Tao đàn 1939, phần lớn chỉ là loại tiểu thuyết của “phường coi cổng”, tiểu thuyết bình dân được nâng lên một tí. Với một thể loại được nhập từ ngoài vào thường chúng ta chỉ tiện tay khai thác sử dụng, chứ chưa tiếp nhận có bài bản, chưa lo dựng tạo cho được một sắc thái riêng đặc trưng cho tiểu thuyết người Việt.



TK: Nếu so sánh thái độ của người Việt và của người Nhật đối với Tây phương, thì anh thấy khác nhau như thế nào?

VTN: Mấy năm trước tôi có được đọc một tài liệu của một nhà nghiên cứu người Việt ở Canada là ông Vĩnh Sính, ông ấy so sánh một người như Phan Bội Châu với một nhà cách tân Nhật Bản là Fukuzawa Yukichi (1834- 1901) ở khía cạnh nhận thức của Phan Bội Châu và Fukuzawa về người nước ngoài, – theo tôi hiểu, cái nhận thức đó, nó quyết định toàn diện hành động và hướng làm việc, hoạt động của hai người. Theo sự mô tả của Vĩnh Sính, thì những người như Phan Bội Châu quan niệm thế này: Người nước ngoài đến Việt Nam, là không thể được, với bất cứ giá nào, ta cũng phải đánh bật họ đi. Phải dùng mọi biện pháp, mọi phương tiện để giành lại độc lập. Ngược lại, Fukuzawa nghĩ, khi có người nước ngoài đến mình mà mình thua, như thế tức là văn hóa mình, đất nước mình, nó có vấn đề. Và ông nhận thức rằng: những người nước ngoài ấy, trước sau sẽ là bạn của mình, trước sau sẽ phải quan hệ với họ, cho nên ta phải tìm hiểu lý do tại sao họ thắng ta. Chính cái việc tìm ra lý do như thế nó sẽ hướng chúng ta vào việc việc học hỏi người ta một cách nghiêm túc, rồi đổi mới xã hội. Mà trước tiên là tự hiểu mình, có cách ứng xử hợp lý thích hợp với nhu cầu của mình. Từ đó mục đích cuối cùng là cứu nước vẫn bảo đảm, mọi mối quan hệ bình thường đối với người ngoài vẫn duy trì, đồng thời tránh được tất cả những mất mát không cần thiết. Có thể nói ở Nhật việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài luôn được thúc đẩy một cách mạnh mẽ, nó làm giàu cho dân tộc Nhật, đồng thời làm cho nước Nhật có thể thích ứng với thế giới.



TK: Từ sau 1945, việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài bước qua một giai đoạn khác, theo sự tìm hiểu của anh ở thời điểm ấy có những chuyện gì đáng nói?

VTN: Trong phạm vi cuộc sống ở miền Bắc, tôi đã có để ý chuyện này và cố tìm hiểu cả các nguồn tài liệu trực tiếp cũng như gián tiếp. Nói cụ thể là tôi muốn trở về với việc tiếp thu văn hóa nước ngoài ngay từ thời ở Việt Bắc. Hồi ông Huy Cận còn sống, có lần tôi đã nói với tác giả Lửa thiêng: “Chính các anh đi kháng chiến chống Pháp bằng văn hóa Pháp”. Tại sao tôi nói thế? Bởi vì cứ xem tờ Văn Nghệ làm trong kháng chiến thì nó có khác gì những tờ Phong Hóa, Ngày Nay làm trước 1945 đâu? Nhìn chung rất nhiều hoạt động văn hóa lúc bấy giờ chẳng qua là áp dụng những bài học chúng ta đã học được từ nền văn hóa Pháp.

Với kháng chiến, một vấn đề mới nảy sinh: phải viết về đánh nhau, là chuyện trước đó ta chưa quen. Lập tức có sự chuyển hướng, tức là học theo người Nga, học theo sách báo Xô Viết, mặc dù lúc bấy giờ chưa biết tiếng Nga, phải “ mượn đường “ qua tiếng Pháp. Hồi làm việc ở tạp chí Văn Nghệ quân đội, tôi nhớ anh Vũ Cao hay kể cho tôi nghe chuyện những năm 48-49. Trên Việt Bắc, chỗ anh ấy có một số sách Pháp lấy được ở Hà Nội lên, thế là Nguyễn Ðình Thi bên Hội Văn Nghệ phải vác ba-lô đến ở chỗ Vũ Cao đọc cho bằng được mấy quyển như là Paris sụp đổ, như là Cơn bão táp của Ehrenbourg... để học cách viết về chiến tranh của người Xô-Viết, từ đó mà có những sáng tác phục vụ kháng chiến. Thày Huỳnh Lý khi giảng cho chúng tôi về văn học 1945-60 ở trường Ðại Học Sư Phạm Hà Nội cũng nói đại ý: Không có những Ðợi anh về của Simonov hay thơ của một số nhà thơ Tây Ban Nha thì chúng ta khó mà có những bài thơ kháng chiến chống Pháp như đã biết. Nếu không có những cuốn như Tinh cầu của Kazakevich chẳng hạn, thì không thể có Trước giờ nổ súng của Lê Khâm. Thế tức là việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài, ngay trong những ngày đầu khói lửa chiến tranh chống Pháp đã có, và sau này lại tiếp tục. Chỗ này phải nhận dân viết văn ở mình nhạy bén lắm, thấy cái gì cần là học ngay, chẳng ngần ngại gì cả.



TK: Còn tới giai đoạn miền Bắc tiếp thu văn hóa Nga Xô Viết ồ ạt như thời 1954-65, cảm tưởng của anh ra sao?

VTN: Phải nói ngay là trong giai đoạn 54-65 này, hoặc một giai đoạn ồ ạt hơn là khoảng 1980-1990, chúng ta cũng lại chưa biết tiếp nhận, nhiều khi tiếp nhận cái dở hơn là cái hay. Cái dở thì vào rất nhanh mà cái hay thì lại không tiếp nhận được, đến mức mà có khi người ta đã bỏ đi rồi, mình lại nắm lấy học theo và chính cái đó nó làm hại mình. Trong những câu chuyện liên quan tới việc tiếp nhận văn học Nga Xô Viết, gần đây một anh làm nghiên cứu văn học Xô Viết là Phạm Vĩnh Cư, có nói đại ý: Nhìn vào cách của mấy nước như Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari... thì rõ ràng họ rất có bản lĩnh. Họ biết phân biệt trong văn học Xô Viết, cái gì hay, cái gì lâu dài thì họ nhận lấy, còn những gì chỉ là tuyên truyền nhất thời thì họ từ bỏ, nếu buộc phải dịch họ chỉ làm qua loa cho xong. Còn ở ta, nói chung, tôi thấy ít ai có can đảm chọn lọc, cứ cái gì mà giới quan chức văn học Xô Viết bảo là hay thì ta dịch và làm theo thôi. Cho nên bây giờ chúng ta vẫn cứ còn loạng choạng thế này.



TK: Trên đây, anh có nói đến khía cạnh hai mặt, vừa “tự tôn”, vừa “tự ti” của người Việt trong việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài. Anh có thể nói rõ hơn một chút về khía cạnh “tự tôn”.

VTN: Kể ra dùng chữ tự tôn cũng chưa hẳn đã chính xác, chỉ biết là trong khi tìm hiểu về việc tiếp nhận, tôi có nhận ra một sự thực là dân ta rất sợ mang tiếng, rất sợ nói rằng chúng ta chịu ảnh hưởng của nước ngoài và luôn luôn muốn lưu ý rằng ta chẳng kém gì người. Ðiều này đã có từ ngày xưa và bây giờ vẫn chưa hết. Một sử gia rất nổi tiếng là Arnold Toynbee, nhà nghiên cứu lịch sử người Anh, trong công trình chủ yếu của mình A Study of History có nói rằng thế giới hiện nay còn tồn tại 38 nền văn minh, trong đó có Việt Nam. Cái đó là cái mà chúng ta đang cần, nên nhiều người thích nhắc lại, cho đây chứng tỏ rằng văn minh Việt Nam, văn hóa Việt Nam ngang ngửa với người, cần được khẳng định. Thế nhưng các vị ấy lại cố tình lờ đi, cố tình quên một điều là theo sự phân loại của Toynbee, thực ra thế giới chỉ có mấy nền văn minh lớn như Ai Cập, Trung Quốc, Ấn Ðộ, phương Tây, Hồi giáo... ngoài ra, còn lại là những nền văn minh vệ tinh. Thậm chí cả Nga nữa, cũng là một loại văn minh vệ tinh, xoay quanh một nền văn hóa lớn khác, tương tự như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam xoay quanh văn hóa Trung Hoa. Cái đó nhiều nhà nghiên cứu đồng nghiệp của tôi không muốn chấp nhận, thấy người Việt ai nói thế thì bảo là hèn, khiếp nhược, kém tinh thần dân tộc. Tôi thấy ở đây có một sự thụt lùi. Tức là từ lâu rồi, các nhà văn, nhà nghiên cứu ở ta đã ghi nhận ảnh hưởng nước ngoài, ví dụ như Lưu Trọng Lư chẳng hạn, ngay từ năm 1939 đã viết trên Tao Ðàn: “Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhất đến một đạo lý cao xa, hồi xưa chúng ta là những người Tàu, gần đây là những người Tây, và chưa lúc nào chúng ta là người Việt Nam cả”. Hay là nhà mác-xít Trường Chinh, trong báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, năm 1948, đã nói chắc như đanh đóng cột: “Ông cha ta hàng chục thế kỷ học Tàu, viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu, pháp luật mô phỏng theo cách Tàu, học triết học Tàu, theo lễ giáo Tàu. Về tín ngưỡng theo cả Tàu lẫn Ấn. Khoa học không tiến. Lối ăn, mặc, ở hủ lậu, bảo thủ, thiếu khoa học”, và ông đã tổng kết là: “Văn hóa cổ của ta có hai nhược điểm lớn là kém khoa học và lai Tàu”. Hay là nhận xét về văn hóa thời Pháp thuộc thì Trường Chinh cũng nói: “Nội dung lộn xộn, phức tạp, hình thức vừa lai Pháp, vừa lai Tàu” (sau này thì chữ Tàu ông ấy đổi thành chữ Trung Quốc). Ðấy, một nhà mác-xít triệt để như ông Trường Chinh mà cũng nói như thế, còn giờ đây chúng ta rất ít người nhắc lại những câu tương tự, vì sợ, vì e nói thế là làm cho mình yếu thế. Và trên tinh thần thì cứ luôn luôn nhấn mạnh rằng ta độc đáo lắm, hình như cái gì ta cũng nghĩ ra hết và có tiếp nhận thì là tiếp nhận rất thông minh rất sáng tạo. Chính cái đó là một lối nghĩ không khách quan, không khoa học, không đúng với sự thực, chả lợi lộc gì mà chỉ làm dân ta hỏng thêm.



TK: Thế còn khía cạnh “tự ti” xuất hiện dưới những hình thức như thế nào?

VTN: Ðó là lối thả cửa bắt chước, thả cửa học đòi, làm theo người ta một cách lộ liễu thô thiển không biết thế nào là lố bịch, là xấu hổ nữa. Lắm lúc cũng không biết nói ai bởi vì bây giờ nó đang thành phổ biến. Ví dụ tôi thấy gần đây có một tình trạng là trong ngôn ngữ, nhiều người rất thích dùng những chữ Hán kể cả những chữ mà họ không hiểu nghĩa hoặc chỉ hiểu mang máng. Rồi rất thích ghép từ đặt câu theo ngữ pháp chữ Hán, thí dụ mấy cửa hàng thì là Cày tơ quán, Trúc ly quán hay thơ thì là đặt tên là Cỏ may thi tập, sách nghiên cứu thì đặt tên là Thuyết Trần (tương tự như Thuyết Ðường?!). Lại chẳng hạn gần nhà tôi có một cái nhà có vẻ biệt thự liền được đặt tên là “Bồ đề trang”. Cứ cảm thấy như là không nói thế không viết thế, không phả một chút “mùi Tàu” nào đấy trong cách nói của mình, chữ nghĩa của mình, thì nó không được sang trọng. Thành ra có hai tình trạng song song tồn tại, vừa để cho ảnh hưởng xâm nhập tràn đầy, vừa đóng kín lại; vừa bắt chước thả cửa, lại vừa ra cái điều là ta không cần ai và hoang tưởng: ta không kém gì ai trên đời này cả.



TK: Tất cả những yếu tố mà anh vừa kể, theo anh, do đâu mà có như vậy?

VTN: Cái này theo tôi nó có một lý do lịch sử: do hoàn cảnh riêng của một quốc gia “phi Hoa phi Ấn”, và do đất nước luôn luôn bị ngoại xâm mà ông cha ta phải làm như vậy. Gần đây trong mấy chục năm chiến tranh, đứng ở góc độ người dân thường mà xét, chúng ta không có tiếp xúc gì với ai cả và không ai biết gì về nước ngoài. Trước 1975, dân Hà Nội chúng tôi ra phố, giá kể nhỡ ra có gặp người nước ngoài hỏi đường cũng không được phép trả lời. Chả ai được phép biết về thế giới đến nơi đến chốn. Ðặc biệt không biết gì về thế giới hiện đại, như trong văn học có thể dịch văn học phương Tây thế kỷ XVIII, XIX chứ với văn học thế kỷ XX thì coi là độc hại, hoàn toàn cấm cửa (đến sau 1986 mới có đổi khác).

Nói nôm na là có cả một xu hướng ta tự cách ly hẳn với người ta. Cái đó kéo dài lâu quá, tạo ra kết quả là khi tiếp xúc trở lại, sinh ra “cóng”, sa vào lúng túng ngớ ngẩn, thậm chí là bệnh hoạn. Gần đây lại có tình trạng: do từ chỗ tối bước ra chỗ sáng, nên bỡ ngỡ, ngạc nhiên, và đâm ra lóa mắt; trong thâm tâm cảm thấy như là có lẽ không bao giờ chúng ta có thể bằng được người, vì thế cho nên tranh thủ hưởng thụ, tranh thủ nhặt nhạnh, tranh thủ làm thế nào để có thể vênh mặt lên mà nói rằng: ta không kém họ. Ðấy là những cái tôi tạm gọi là những bệnh tật trong sự tiếp nhận, nếu không khắc phục được thì không biết bao giờ chúng ta mới có thể tiến lên được.



TK: Trong tình trạng chung ấy, anh và các bạn ở Hà Nội là những nhà văn, nhà phê bình, thì các anh chị đã tiếp cận với nền văn hóa nước ngoài bằng những cách nào?

VTN: Ở Hà Nội, lớp người viết văn, viết báo sinh khoảng những năm bốn mươi chúng tôi là một lứa người rất độc đáo trong lịch sử. Tức là các cụ ngày trước, thì ít nhất là biết chữ Hán, biết văn học Trung Quốc. Chẳng những các nhà văn tiền chiến, mà ngay các nhà văn thế hệ chống Pháp, một số như các anh Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, còn biết tiếng Pháp và thường đọc văn học Pháp. Còn như bọn chúng tôi, có biết gì thì cũng là thông qua những bản dịch. Như chị biết đấy: có học ngoại ngữ mới hiểu và dùng đúng tiếng Việt, có biết văn học nước ngoài thì thật sự anh mới hiểu sâu sắc văn học Việt. Thế nhưng chúng tôi chẳng biết cái gì cả, chỉ biết mỗi một thứ văn học Việt Nam như các bậc đàn anh diễn giải, ngoài ra mò mẫm xem ai dịch được cái gì thì biết thêm cái đó. Khi đã có thể trực tiếp đọc được một ít sách báo nước ngoài (với tôi là tiếng Nga) và sau mấy chục năm làm biên tập xuất bản, nhìn lại việc dịch, tôi lại phát hiện ra một điều đáng sợ khác: ta dịch sai nhiều lắm, tùy tiện, ẩu, liều lĩnh bừa phứa; lâu nay đã vậy và gần đây càng như vậy. Chưa kể ở Hà Nội còn có một cái lối rất kỳ là thấy người nước ngoài nào viết trái ý mình liền cắt bỏ ngay lập tức. Cho nên gọi là có dịch mà anh em chúng tôi vẫn không hiểu gì về thế giới. Khó khăn đến mức là với tiếng Việt hiện nay, những tác phẩm hiện đại, loại như của Marcel Proust, James Joyce, Kafka... rất khó dịch; khi tiếp xúc với các bản dịch các tác phẩm văn học đương đại mà có những đổi mới về kỹ thuật biểu hiện, tôi cảm thấy thường là chúng ta dịch không chính xác và không nói đúng được cái ý của người ta. Và bởi vì các nhà văn chỉ tiếp xúc với văn học nước ngoài qua bản dịch thôi, cái đó quay lại hạn chế nhận thức rất nhiều.



TK: Nếu nói riêng về địa hạt lý luận phê bình thì tình trạng tiếp nhận là như thế nào?

VTN: Năm 2004 ở Hà Nội đã có một cuộc hội thảo về lý luận, tôi cũng có một tham luận, đại ý tôi nói thế này: Nói cho nghiêm túc thì ở Việt Nam không có lý luận. Các cụ ngày trước cũng đã công nhận như thế. Chúng ta có quen tư duy lý luận đâu? Không quen, không thích làm, không thích nghĩ, thậm chí dè bỉu chê bai những người làm lý luận. Ðến lúc theo lối làm ăn của Liên Xô của Trung Quốc, phải có vài đường học thuật, thì cũng chỉ vay mượn để diễn giảng một vài vấn đề gọi là cơ bản, gọi là cần thiết thôi, sau đó không tiếp tục đi sâu nữa. Vì thế cho nên căn bản ở Việt Nam lý luận thực thụ không có, công trình lý thuyết không có. Những người mà có thể nói là có đóng góp cho công tác lý luận, chính là những người đọc được sách báo nước ngoài và giới thiệu lại những cái đó cho các đồng nghiệp, và có yêu cầu nhau cái gì thì cũng phải nhớ điểm xuất phát đó. Hơn bốn chục năm trước khi học các giáo trình Sơ thảo nguyên lý văn học, Mấy vấn đề nguyên lý văn học của giáo sư Nguyễn Lương Ngọc, tôi thấy tác giả có sự tiếp cận khá rộng rãi, tài liệu thì kể cả Trung Quốc, kể cả Liên Xô, kể cả phương Tây đều có đọc, và có cả lý luận cổ nữa, như Văn tâm điêu long, Tùy viên thi thoại cũng biết. Cách giới thiệu của Nguyễn Lương Ngọc chừng mực mà vẫn cởi mở và hướng tới những chân trời rộng rãi. Những người đi sau tuy có vài khía cạnh đi sâu hơn nhưng lại có sự giản lược với nghĩa chỉ dừng lại ở một vài tác giả như Timofiev hoặc gần đây thì Likhachov hay là Bakhtine v.v... Tức là người mà có sự tiếp nhận lý luận phê bình một cách sâu sắc và toàn diện thì không có. Ấy là không kể nhiều học thuyết của nước ngoài, khi được truyền đạt phần lớn chỉ ở dạng thông tin, may lắm thì người giới thiệu thuộc bài hiểu bài, chứ chưa ai có khả năng đánh giá, cũng như chưa đề ra được hướng áp dụng những cái đó vào việc giải quyết các vấn đề đặt ra trong văn học Việt Nam.

Gần đây khi việc tiếp nhận lý luận phương Tây được “bật đèn vàng” – tức là không cấm mà cũng không khuyến khích, để tùy nghi ai muốn làm thì làm – lập tức có tình trạng là một số anh em vừa đọc được những cái lạ thì có khi mới chàng màng qua loa đã quay ra “trộ”, “lòe”, làm phách với chung quanh, từ đó gợi nên rất nhiều phản cảm. Cũng có người tiếp nhận rất nghiêm túc, nhưng can tội say sưa quá, chỉ nói lại một ít điều đã đọc được ở những tác giả nước ngoài mà vội làm ầm làm ĩ, nào là “loại một của thế giới đây” “hảo hạng đây”, nào là “tôi tìm ra”, “đấy là của tôi”. Trong những trường hợp này, tôi có cảm tưởng chuyện xảy ra trong học thuật mà chẳng khác gì bên làm ăn buôn bán. Trong hoạt động nhập khẩu hàng hóa người ta thường thấy các hãng nước ngoài có đại lý ở Việt Nam, cửa hàng này đại diện hãng dầu Shell, cửa hàng kia chuyên bán sản phẩm Toyota. Thì mấy nhà nghiên cứu nói trên, cũng chẳng qua là những “đại lý” của những nhà lý luận nước ngoài thôi, còn cố ra oai mà tự phong mình là nhà lý luận thì e tội nghiệp quá. Tình trạng ấy, theo tôi, cũng rất đặc trưng cho cách thông tin và lý luận kiểu Việt Nam.

Một ý khác tôi đã lưu ý trong bản tham luận nói trên: mục đích trước mắt của việc tiếp nhận là để giúp vào việc lý giải các hiện tượng văn học trong nước. Giới thiệu những lý luận mới mẻ ở nước ngoài là hết sức cần thiết, nhưng chớ nên quên nó hình thành là để hợp với trình độ của người ta. Chỉ có một số nhỏ trong những lý luận mới đó phù hợp với đối tượng là văn học Việt Nam kể cả văn học đương đại lẫn văn học cổ. Nếu nhầm lẫn ở chỗ này thì tài cao học rộng đến đâu cũng vô ích, hoặc chỉ có ích trong một phạm vi hạn hẹp.



TK: Cách nhìn về tình trạng tiếp nhận văn học nước ngoài hiện nay ở Việt Nam anh trình bày ở trên có được nhiều người chia sẻ?

VTN: Ðôi khi tôi tìm được những đồng minh rất tình cờ. Ví như gần đây tôi có đọc được ý kiến của một nhà văn trẻ đang sống ở Mỹ và từng có dịp về làm việc ở Hà Nội là Lê Thị Huệ. Qua một bài trả lời phỏng vấn trên Hợp Lưu cuối năm 2004, tôi được biết chị Huệ từng có cuốn sách “Văn hóa trì trệ” nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ XXI. Ðiều quan trọng hơn là trong cuốn đó có cả một chương mang tên văn hóa vọng ngoại. Theo Lê Thị Huệ, “giới văn học Hà Nội (cả sáng tác và phê bình) có nhiều chỗ tệ, nhưng tệ nhất là lười độc lập. Cứ le te thấy ngoại quốc có cái gì hay thì ca um lên, rồi bắt chước theo, sùng bái còn hơn cả tín đồ nước gốc. Ra cái điều là ta cũng biết ông Tây, bà Ðầm này nọ. Vọng ngoại và vong thân tràn lùa như một cơn lũ đã phá tan và đánh bạt niềm tự tôn của người Việt Nam quá lâu”.

Tôi không quen chị Huệ và cũng chưa có may mắn đọc sáng tác của chị nhưng rất đồng tình với các nhận xét nói trên. Có một số người thấy tôi bảo dân mình co lại khép kín và không biết tiếp thu nước ngoài liền kêu tướng lên rằng tôi vọng ngoại, họ có biết đâu tôi cũng rất dị ứng với các hiện tượng nông nổi kiểu đó. Ðiều tôi muốn lưu ý thêm là thường thì vọng ngoại lại đi liền với bài ngoại, không hiếm những người học đòi lại chính là những người co lại và tuyệt đối hóa bản sắc của mình như trên đã nói.

Nhìn chung, tôi cho rằng tình hình tiếp nhận văn hóa nước ngoài chưa được suy nghĩ một cách nghiêm túc. Thậm chí nhiều lúc chúng ta rơi vào tình trạng dễ dãi và nói theo thói quen. Ví dụ như một nhà văn mà tôi thấy rất đáng kính trọng là anh Nguyên Ngọc. Tác giả Ðất nước đứng lên là một trong số ít nhà văn hiện nay hiểu biết nhiều về văn hóa văn học nước ngoài. Nguyên Ngọc cũng là người có nhiều quan điểm khá cởi mở. Về việc tiếp nhận, anh ấy từng nói rất đúng rằng phải xem mở cửa như một quy luật tất yếu. Thời nào mà chúng ta biết tiếp nhận nước ngoài thì chúng ta sẽ phát triển, giữ được bản sắc, còn nếu chúng ta đóng kín, thì chúng ta đánh mất bản sắc. Thế nhưng cuối cùng thì Nguyên Ngọc lại kết luận như thế này – tôi không biết bây giờ anh ấy còn nghĩ như thế không – “Dân tộc ta hiểu rất rõ quy luật này và đã vận dụng hết sức sáng tạo” hoặc “Kiểu cách của văn hóa Việt Nam là gì? Ðó chính là khả năng tiếp nhận và tiêu hóa được tất cả những tinh hoa của văn hóa đến từ nơi khác, chắt lọc và hòa nhập vào cái của mình”. (Trích trong báo Người Hà Nội, một số ra trong tháng Tư năm 2002. ) Tôi ngờ rằng đây là một nhận định dễ dãi, nói quen miệng thôi. Chứ thực ra nếu chúng ta được như thế thì mừng quá rồi còn gì nữa, và có lẽ văn hóa của chúng ta nó không rơi vào tình trạng như hiện nay.



TK: Ðể kết luận, xin hỏi anh một câu hỏi chót: Theo anh thì có việc gì phải làm ngay để lay động thói quen cũ và buộc mọi người quan tâm tới vấn đề này?

VTN: Tôi cho rằng đã đến lúc mọi người làm văn hóa Việt Nam phải chú ý tới câu chuyện tiếp nhận. Xác nhận bằng được ảnh hưởng từ bên ngoài để rồi tìm ra chính mình, tách mình khỏi người, trong khi vẫn không quên tiếp tục học hỏi. Phải có một chương trình nghiên cứu đàng hoàng, phải tiến tới biên soạn một bộ “Lịch sử sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài ở Việt Nam”. Ði theo hướng đó tức là dần dần lần ra chân tướng của văn hóa ta. Thật ra việc này ít nhiều các bậc tiền bối đã làm. Dương Quảng Hàm, mở đầu cuốn Việt Nam văn học sử yếu đã viết ngay về ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa đối với Việt Nam. Sau này, Thanh Lãng, khi viết về văn học Việt Nam thế kỷ XX, cũng đã rất chú ý đến ảnh hưởng của Pháp. Nhưng gần đây, ở Hà Nội, tôi thấy có tình trạng là các sách nghiên cứu văn hóa ít chú ý đến ảnh hưởng nước ngoài. Cứ nói như là nền văn hóa ta giời sinh ra đã như thế, đã có khả năng làm được những việc mà ta đã làm. Rất thiếu hiểu biết lịch sử và kém trong việc vận dụng quan niệm lịch sử.

Hiện nay người Việt đang sống ở nước ngoài cũng khá đông. Hằng ngày hằng giờ, họ phải làm công việc hội nhập văn hóa để xây dựng lại bản thân mình. Ðây cũng là một khu vực nghiên cứu thú vị và tôi ngờ rằng những quy luật rút ra từ việc tiếp nhận văn hóa nước ngoài ngay trên xứ người cũng sẽ dẫn đến những kết luận tương tự như khi nghiên cứu người ở trong nước.

Cần nghiên cứu sự tiếp nhận nói chung vì qua đó, sẽ cho ta thấy bản lĩnh Việt Nam và thậm chí là sẽ giúp ta tìm thấy bản sắc thực sự của mình. Bản sắc không phải là một cái gì nó tự sinh ra, mà được hình thành như sản phẩm của những mối quan hệ với hoàn cảnh chung quanh. Bản sắc không nhất thành bất biến và có thể nói rằng, hiện nay chúng ta vẫn đang đi tìm bản sắc. Rồi ra chính trong cái việc kiểm điểm xem ta nhận của nước ngoài cái gì, ta sẽ hiểu bản sắc và vốn liếng thật của mình. Mỗi khi nói về các vấn đề có liên quan tới giao lưu, học hỏi, cọ xát, tiếp nhận, ảnh hưởng, thường trong đầu tôi vẳng lên câu thơ của Aragon: “Tất cả gì về anh nhờ em anh mới biết.” Ông ấy nói với người yêu rằng qua sự tiếp xúc với em mà anh mới biết anh là người như thế nào, có gì hay gì dở. Câu thơ nói về chuyện lứa đôi riêng tư mà lại có sức khái quát. Ðứng trên bình diện cả dân tộc cũng vậy, tôi cho rằng qua việc tiếp cận và so sánh với người nước ngoài, ta mới thực hiểu ta là người thế nào.



TK: Xin thành thật cảm ơn anh Vương Trí Nhàn.

THỤY KHUÊ thực hiện

Paris, tháng 6/2005

Không có nhận xét nào:

SỐ TRUY CẬP